Thực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Pdf 24

ĐỀ ÁN KINH TẾ THƯƠNG MẠI

LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
dộng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu…góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước. Là
một bộ phận của hoạt động đàu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh
dộng gắn kinh tế nghành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất là nội
dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của
các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức tạp.
Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: “Làm thế nào
thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập? ”
Để góp một phần nhỏ bé vào nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt
đồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, sau một
thời gian nghiên cứu, em xin chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.”
Khóa luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
một hay vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng
thể trên toàn bộ các khu tổng thể trong khoảng thời gian 16 năm, kể từ khi
khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện tại.
1
Bài viết được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu

ngoại tệ để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân
tộc.
Ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát
triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công giá
và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất
công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến gần các
nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của
mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút đầu tư từ
bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực hiện chiến
lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu tố
khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và rất có
ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các
quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển.Khu chế xuất cũng chính
là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi dụng và phát huy nhanh
chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng bằng cách tham gia tích
cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng, xét về mặt lợi ích và hiệu quả
theo nguyên lý vủa lý thuyết lợi thế so sánh, khu chế xuất là nơi hội tụ về
quyền lợi của các nước đang phát triển và các công ty xuyên quốc gia, người
nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư nước ngoài hiện nay trên thế giới.
3

b,Định nghĩa:
Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới (WEPZA):
Theo điều lệ hoạt dộng của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các
khu được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do,
khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác
được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế xuất
với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và
Sinhgapo vào các khu chế xuất.

Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế
giới.
Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực
sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến điều này:
+Một là , có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên
thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu
vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các
khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài
chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh
doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư.
+Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các
nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kỹ thuật
nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa.
Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện.
+Ba là xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị
trường thế giới. Chính yêu cầu này đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất
trước những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của
khu chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng công
nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có
dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại
trước các xí nghiệp khu chế xuất. Không tạo nên môi trường kinh doanh có
tính cạnh tranh cao giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và
nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác dộng tiêu cực
đối với khả năng tăng năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung.
Khu công nghiệp – mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô
hình khu chế xuất cổ điển.
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư
nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được

1.3. Sự giống nhau và khác nhau giữa KCN, KCX:
a.Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng
một vài trăm hecta. VD: Khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất
Linh Trung là 60 ha, khu công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp
Nội Bài là 100 ha…
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu
có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 trêịu đôla, với số lao động khoảng từ
300-400 người.
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ
chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngoài.
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được
thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh,
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
6
- Năm là, để quản lý Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp,
Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban quản lý. Ban quản lý khu chế xuất và khu
công nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lý “một cửa” cho các nhà đầu
tư.
b.Khác nhau:
-Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất
khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công
nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
-Thứ hai, ưu đãi giữa khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác nhau do
xuất phát từ mục tiêu khác nhau. Theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/
2000/NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp

càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Điều
này có thể giúp chúng ta lý giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thường
đầu tư vào những nghành công nghiệp nhẹ, chế biến lắp ráp như dệt, may
mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu công nghiệp, khu chế xuất của các
nước đang phát triển.
-Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước
đang phát triển, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thế và
các ưu đãi khác của các nước này nhằm tăng cường lưọi ích của các công ty
xuyên quốc gia.
-Bảo vệ môi trường các nước phát triển
Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp
nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường không kiểm soát nổi
ở các nước phát triển, làm cho phí bảo vệ môi trường ngày càng tăng. Xu
hướng chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các ngành công
nghiệp này sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường nước họ và
giảm chi phí sản xuất.
-Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài
Khi đầu tư ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất, các công ty tư bản nước ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ
đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ.
Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào
Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó.
b. Mục tiêu của các nước thành lập:
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất. Với tính
chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trường
đầu tư chung của các nước, khu công nghiệp, khu chế xuẩt trở thành công cụ
hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiệp nước ngoài để mở mang hoạt động sản xuất
kinh doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của các nền
kinh tế.

Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt
là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị
trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa
học kỹ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng
khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo
điều kiện nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ của các công ty tư bản nước ngoài,
học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữư hiệu mà nhiều
nước từng áp dụng.
Ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết kỹ
thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ
trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kỹ thuật phục
vụ cho công cuộc bốn hiện đại hoá là mục tiêu luôn được quan tâm của Trung
Quốc, đặc biệt ở các đặc khu kinh tế được thành lập trong những năm cuối
9
thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao
được thành lập trong những năm gần đây.
-Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế trong nước.
Trước hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị trường nội
địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu từ
nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu. Còn khu chế
xuất. với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động của khu chế
xuất chủ yếu hướng ra thị trường thế giới. Vì vậy, có thể xem khu công
nghiệp, khu chế xuất như là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nước
với kinh tế khu vực và thế giới.
Ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có thu
nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo
công ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt
dộng đầu tư trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó.

Như vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác động
nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ việc tổ chức
cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, phát triển hạ tầng kiến trúc, bảo
vệ môi trường đến việc nâng cao mức sống nhân dân.

II.QUAN HỆ GIỮA VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ
XUẤT Ở VIỆT NAM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.Khu công nghiệp, khu chế xuất - sự phát triển tất yếu của hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bước vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và quan
hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực có những biến chuyển nhanh chóng và
sâu sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ,
cũng như tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với những
biến đổi ấy, ở nhiều nước đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo hướng
tận dụng tốt nhất những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động
quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nước.
Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nước ta cải
cách kinh tế theo hướng “mở cửa” đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Vào thời điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh
vốn đầu tư để duy trì và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ
tụt hậu về phát triển giữa nước ta và các nước được đặt ra hết sức cấp bách.
Khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là
giải pháp chính cho vấn đề nói trên. Nhưng khi nguồn đầu tư trong nước còn
hạn chế, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường để huy động tối đa nguồn
vốn đó, thì nguồn lực bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc
xây dựng các công trình quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với công nghiệp
hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
11
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những bộ phận quan

bước phát triển có tính chất logic của các chính sách phát triển kinh tế đất
nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngoài nói riêng.
2.Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh mẽ hệ thống khu công nghiệp,
khu chế xuất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là vì:
12
-Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư của các nước
phát triển, trước hết là của các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tư bản lớn
là nguồn đầu tư quan trọng nhất. Khu công nghiệp, khu chế xuất chính là môi
trường thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất
hàng xuất khẩu.
-Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội đã hạn chế khả năng tăng
trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước nói
chung và của từng vùng nói riêng. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa
bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng
đạt trình độ quốc tế, với chi phí thấp đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư nước
ngoài.
-Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu, tận dụng
được ưu thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.
-Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép áp dụng qui chế riêng với những
qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành chính, trước hết là thủ tục hải
quan, thuế tương đối đơn giản, thông thoáng, dễ áp dụng nên hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài.
- Là nơi đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phương pháp quản
trị kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, cung cấp
cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề có chuyên môn kỹ thuật cho các
ngành kinh tế.
Tóm lại, khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một cầu nối gắn thị

Tại khu vực kinh tế Bắc Bộ tập trung các khu công nghiệp lớn tầm cỡ, thu hút
nhiều dự án lớn như: khu công nghiệp Thăng Long, khu công nghiệp Sài Đồng,
khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Nomura, khu công nghiệp Đình
Vũ... Các ngành công nghiệp chủ chốt: sản xuất xi măng, đóng tàu (Hải Phòng
và Quảng Ninh), ô tô, xe máy (Vĩnh Phúc, Hải Dương), luyện cán thép (Thái
Nguyên).Trong đó nổi lên như khu công nghiệp Nomura được đánh giá là đồng
bộ, hiện đại nhất Việt Nam có tỷ suất đầu tư cao ( xấp xỉ 7 triệu/ha ) thu hút, tạo
việc làm cho trên 15.000 lao động địa phương (tính đến năm 2007) và đến năm
2010, con số này sẽ lên đến 30.000 lao động...Khu công nghiệp - đô thị Quế Võ
rộng hơn 600 ha. Theo chủ trương, mô hình khu công nghiệp Quế Võ được thiết
kế hiện đại, bao gồm một diện tích rộng 311,6 ha dành cho xây dựng các nhà
14

Trích đoạn VIỆT NAM.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status