các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại hoa kỳ và một số quốc gia trên thế giới - Pdf 25

CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM TẠI
HOA KỲ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
GS.TS. Lê Hồng Hạnh
Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp
Trương Hồng Quang
Nghiên cứu viên Ban NCPL Dân sự - Kinh tế, Viện KHPL, Bộ Tư pháp.
1. Các nguyên lý cơ bản của chế độ trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ
1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ
Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm (Products Liability) là một định chế pháp
luật quan trọng ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Quá trình phát triển chế
định pháp luật này gắn liền với nhu cầu bảo vệ người tiêu dùng trước những nhà sản xuất,
cung ứng hàng hoá sản phẩm. Cội nguồn của vấn đề là ở sự xung đột lợi ích giữa việc
chạy đua lợi nhuận với sự cần thiết phải đảm bảo an toàn tính mạng, sức khoẻ cho người
dân. Các doanh nghiệp, do chạy theo lợi nhuận, do để cạnh tranh, các nhà sản xuất có xu
hướng bỏ qua những yêu cầu về an toàn nhằm tránh chi phí cao hoặc bỏ qua những cảnh
báo về sự nguy hại tiềm tàng của việc sử dụng sản phẩm nhằm tránh việc giảm mức tiêu
thụ chúng. Sự phát triển của chế định này là một bước tiến của pháp luật ở nhiều nước
trong việc kiểm soát các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm vì lợi ích của cộng đồng. Bản
chất của chế định này là các nhà sản xuất và những tổ chức, cá nhân tham gia vào việc
tiêu thụ sản phẩm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho người sử dụng
sản phẩm nếu như việc sử dụng chúng tiềm ẩn những nguy hại nhưng không được cảnh
báo trước.
Tại Hoa Kỳ, năm 1965, Viện luật Mỹ đã ban tiến hành Bộ pháp điển phiên bản 2[1], (bản
sửa đổi lần thứ hai). Đáng chú ý trong Bộ pháp điển này liên quan đến trách nhiệm sản
phẩm là mục 402 A với định nghĩa và những quy định về trách nhiệm đối với những sản
phẩm có khuyết tật. Mục 402A qui định như sau:
“1.1. Một người bán bất kỳ một sản phẩm nào trong tình trạng có khiếm khuyết có thể có
tính nguy hiểm cao cho người sử dụng, hoặc cho khách hàng, hoặc cho tài sản của họ, sẽ
phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại về thể chất xảy ra đối với người sử dụng
hoặc khách hàng hay tài sản của họ nếu:
i. Người bán tham gia vào việc kinh doanh sản phẩm đó, và

không chấp nhận nên Luật này vẫn chưa có được giá trị như Bộ luật Thương mại thống
nhất (UCC). Tuy nhiên, nhiều qui định trong Luật mẫu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động xét xử của các toà án Mỹ đối với các vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm. Những
nguyê tắc này rất có ý nghĩa đối với những người khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do sử
dụng sản phẩm có khiếm khuyết hay không an toàn.
Như vậy có thể thấy, pháp luật liên bang của Mỹ chưa thể điều chỉnh thống nhất quan hệ
về trách nhiệm sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều qui định trong các văn bản pháp luật liên
bang về nghĩa vụ đảm bảo trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được áp dụng để xác định
các khía cạnh khác nhau về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà cung ứng đối với sản phẩm
của mình khi chúng gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
1.2. Các nguyên lý nền tảng của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ
Trước đây, những thiệt hại mà người sử dụng sản phẩm phải gánh chịu không hề được
bồi thường. Pháp luật các nước theo hệ thống Common Law xuất phát từ quan điểm cho
rằng giữa người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm không có mối quan hệ nào nên việc
bồi thường trong những trường hợp có thiệt hại xảy ra là không có cơ sở pháp lý. Giống
như ở Anh, tại Mỹ, nơi thuyết “quan hệ mật thiết”[3] (in privity doctrine[4]) được coi
như là một pháo đài bất khả xâm phạm được các bị đơn và các thẩm phán sử dụng để
chống lại bên nguyên đơn trong các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại. Theo học
thuyết này, giữa người bị thiệt hại với người bị buộc phải bồi thường phải có mối liên hệ
nhất định nào đó, chẳng hạn như quan hệ hợp đồng. Xuất phát từ quan điểm này nên
trong vụ án Winterbottom kiện Wright[5], thẩm phán đã bác bỏ yêu cầu bồi thường thiệt
hại của nhân viên công ty bưu điện Posmaster General kiện ông Wright, người sản xuất
ra chiếc xe ngựa chuyên dùng cho bưu điện. Winterbottom đã điều khiển chiếc xe này và
trong một lần đi đưa thư, do thiết kế quá kém nên xe đã sập khiến người này bị thiệt hại
về sức khoẻ. Trong suốt cả thế kỷ tiếp theo đó, đã có nhiều vụ án về trách nhiệm sản
phẩm xảy ra song những người khởi kiện chưa thắng nổi. Học thuyết in privity vẫn đứng
vững trước những sự tấn công của giới luật sư và các nhà hoạt động xã hội. Chỉ mãi nửa
thế kỷ sau, học thuyết này mới bị sụp đổ trong vụ Henningsen kiện Bloomfield Motor[6].
Trong vụ án này, thẩm phán của toà án Mỹ đã bác bỏ thuyết in privity và áp dụng trách
nhiệm của nhà sản xuất đối với an toàn sản phẩm trong quá trình sử dụng. Vụ án này mở

đảm bảo cho những người vận hành máy, cho dù những người này không phải là người
đã ký hợp đồng mua máy cưa, sự an toàn khi vận hành máy. Ví dụ: Có một người xâm
nhập vườn của người khác và bị rơi xuống một hố không đậy nắp và gãy chân. Người bị
thiệt hại không thể lập luận rằng chủ của vườn có nghĩa vụ phải quan tâm đến sức khoẻ
và sự an toàn của anh tra khi đi lại trên vườn này. Tuy nhiên, nếu người bị hại là khách
mời thì ở đây xuất hiện nghĩa vụ của chủ đảm bảo sự an toàn cho khách của mình.
Điểm quan trọng tiếp theo trong việc xác định trách nhiệm sản phẩm là việc người có sản
phẩm vi phạm nghĩa vụ quan tâm đến sức khoẻ và tính mạng của người sử dụng sản
phẩm. Người bị thiệt hại phải chứng minh được là người bán sản phẩm đã vi phạm nghĩa
vụ của mình và chính sự vi phạm này đã làm phát sinh thiệt hại. Trong chừng mực nhất
định có thể căn cứ tương tự mối quan hệ nhân quả được sử dụng rộng rãi trong các nước
theo truyền thống luật dân sự khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Trong thực tiễn pháp luật ở Mỹ, giả định về việc tất cả sản phẩm đưa vào tiêu dùng phải
an toàn và không bị hư hỏng luôn luôn được tôn trọng. Điều này có nghĩa là người sản
xuất hay người cung ứng sản phẩm có nghĩa vụ đảm bảo sản phẩm của mình khi đến với
người tiêu dùng là sản phẩm không hư hỏng, an toàn và nếu có khả năng không an toàn,
tức là tác động phụ thì phải có cảnh báo.
Tóm lại, để có cơ sở cho việc khởi kiện dựa trên sự cẩu thả từ phía người sản xuất, người
bị hại phải chứng minh được: (1) Nghĩa vụ của người sản xuất; (2) Sự vi phạm nghĩa vụ
đó; (3) Thiệt hại; (4) Mối liên hệ giữa vi phạm đó với thiệt hại.
1.2.2. Nguyên lý vi phạm nghĩa vụ bảo đảm (warranty)
Nghĩa vụ bảo đảm sản phẩm cũng là một trong các cơ sở quan trọng để áp đặt trách
nhiệm sản phẩm. Trách nhiệm của người sản xuất và cung ứng là phải đảm bảo chất
lượng sản phẩm của mình. Tuy Hoa Kỳ chưa có pháp luật liên bang về trách nhiệm sản
phẩm song nghĩa vụ đảm bảo lại được qui định khá rõ trong Bộ luật thương mại thống
nhất (UCC). Mục 2-313 UCC qui định về đảm bảo công khai như sau:
1. Đảm bảo công khai của người bán được hình thành như sau:
a. Bất cứ sự khẳng tình tiết hay lời hứa của người bán liên quan đến hàng bán và trở
thành một phần trong cơ sở của việc mặc cả sẽ tạo ra đảm bảo công khai rằng hàng bán

dựa trên những cơ sở khác.
1.2.3. Nguyên lý trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability)
Trách nhiệm nghiêm ngặt là cơ sở thuận lợi nhất cho việc kiện đòi bồi thường thiệt hại
theo chế định trách nhiệm sản phẩm. Trách nhiệm nghiêm ngặt được hiểu là người sản
xuất phải chịu trách nhiệm nếu như sản phẩm bị kém chất lượng và việc sử dụng sản
phẩm kém chất lượng này trong điều kiện bình thường gây ra những thiệt hại cho người
sử dụng. Để khởi kiện theo cơ sở này, người khởi kiện không cần chứng minh có hay
không có sự cẩu thả của nhà sản xuất, có hay có nghĩa vụ đảm bảo. Người khởi kiện chỉ
cần chứng minh rằng sản phẩm kém chất lượng và nguy hiểm một cách phi lý và thực tế
đã gây thiệt hại. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, dù rất nhiều bang của Mỹ áp dụng trách
nhiệm nghiêm ngặt đối với tất cả các chủ thể tham gia quá trình phân phối sản phẩm song
vẫn có một số bang bảo vệ người bán lẻ bằng việc yêu cầu người bị thiệt hại chứng minh
sự cẩu thả của người bán lẻ khi kiện đòi bồi thường thiệt hai do việc sử dụng sản phẩm
gây ra.
Nguyên tắc chung là người sản xuất, cung ứng sản phẩm không phải chịu trách nhiệm đối
với những thiệt hại liên quan đến sản phẩm chừng nào sản phẩm không bị hư hỏng và có
độ an toàn. Vì vậy, để đòi bồi thường, người bị thiệt hại phải chứng minh được sản phẩm
hỏng hay không an toàn và việc sử dụng nó thực tế đã gây thiệt hại.
Chất lượng kém của sản phẩm thể hiện ở ba khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, sản phẩm có hư hỏng do sản xuất. Đây là cơ sở chủ yếu để áp đặt trách nhiệm
bồi thường đối với nhà sản xuất. Cơ sở áp đặt trách nhiệm này nhằm vào qui trình sản
xuất. Ví dụ, việc sản xuất ô tô với bộ phận phanh không tốt, không đảm bảo tiêu chuẩn.
Người sử dụng ô tô có sự hư hỏng như vậy đã phải gánh chịu thiệt hại khi phanh, xe
không dừng được và lao xuống hố sâu, bị thiệt hại về sức khoẻ hoặc tính mạng. Một sản
phẩm hư hỏng thường là những sản phẩm sản xuất không theo đúng yêu cầu thiết kế hoặc
tiêu chuẩn hoạt động hoặc có sự khác biệt đáng kể so với việc sản xuất ra sản phẩm cùng
loại trong cùng dây chuyền sản xuất. Những hư hỏng do sản xuất bao gồm việc sản xuất
thường bắt nguồn từ việc lắp ráp không đúng, thiếu hụt chi tiết, các bộ phận liên kết
không chặt, sử dụng nguyên vật liệu kém tiêu chuẩn hoặc nguyên vật liệu hư hỏng.
Việc áp dụng trách nhiệm nghiêm ngặt trong lĩnh vực công nghiệp thực phẩm có một số

báo về tác động có thể của sản phẩm. Những cách thức để xác định sự khiếm khuyết của
sản phẩm được các bang của Mỹ sử dụng phổ biến là:
- Kiểm định về sự mong muốn của người tiêu dùng (Consumer Expectation Test);
- Kiểm định về tính nguy cơ - sự hữu ích (Risk-Utility Test);
- Nguyên tắc về sự nguy hiểm rõ ràng (Open and Obvious Danger Rule);
- Sự lựa chọn thiết kế hợp lý (Feasible/Reasonable Design Alternative);
- Học thuyết người sử dụng tinh tế(Sofiscated User Doctrine);
- Học thuyết trung gian có học vấn (Learned Intermediary Doctrine).
2. Các nguyên lý cơ bản về trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật của Liên minh
Châu Âu, Canada và một số nước châu Á
Nếu như sự sụp đổ của học thuyết privity đã làm tiền đề cho sự ra đời và phát triển của
chế định trách nhiệm sản phẩm thì các nguyên lý nền tảng đã phân tích ở trên có vai trò
quan trọng trong việc xác định nội dung của chế định này. Những nghiên cứu so sánh
pháp luật một số nước về trách nhiệm sản phẩm cho thấy rằng, chế định trách nhiệm sản
phẩm đã được tạo nên, xây dựng bởi các nguyên lý nền tảng đó dù có sự thể hiện khác
nhau về mức độ. Một số nước ban đầu qui định trong pháp luật về sự bất cẩn, vi phạm
nghĩa vụ bảo đảm sau đó qui định trách nhiệm nghiêm ngặt. Một số quốc gia đi sau tiếp
thu đồng thời các nguyên lý về trách nhiệm sản phẩm. Bên cạnh đó, việc xây dựng pháp
luật về trách nhiệm sản phẩm có thể tách riêng ra thành một đạo luật hoặc xây dựng theo
mô hình là một chế định trong Luật bảo vệ Người tiêu dùng, Sau đây, chúng tôi sẽ xem
xét sự thể hiện các nguyên lý cơ bản về trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật của một số
nước và khu vực
2.1. Tại Liên minh Châu Âu. EU đã có những cố gắng lớn trong việc điều chỉnh pháp
luật quan hệ giữa người sản xuất, cung ứng với người tiêu dụng liên quan đến những thiệt
hại do sử dụng sản phẩm gây ra. Các các nguyên lý cơ bản về trách nhiệm sản phẩm được
thể hiện khá rõ trong Chỉ thị 85/374/EEC của Liên minh Châu Âu. Chỉ thị này được ban
hành ngày 25 tháng 7 năm 1985 để hài hoà hoá các quy định bắt buộc trong lĩnh vực
pháp luật và hành chính của các nước thành viên về trách nhiệm của các sản phẩm bị
khiếm khuyết[8]. Chỉ thị này được ban hành trên cơ sở Hiệp ước về thành lập Cộng đồng
Châu Âu, nhất là điều 100. Chỉ thị 85/374/EEC này đã được sửa đổi bởi Chỉ thị số

Ủy ban Châu Âu về trách nhiệm sản phẩm[14], Luật Trách nhiệm sản phẩm của Nhật
Bản năm 1994 chỉ gồm có 7 Điều luật[15]. So sánh với các quy định về trách nhiệm sản
phẩm trong pháp luật của EU hoặc Hoa Kỳ, có thể thấy rằng, mức độ chi tiết trong các
quy định về trách nhiệm sản phẩm ở Nhật Bản còn thiếu và chưa chi tiết trong việc qui
định về các dạng khuyết tật việc phân chia trách nhiệm chứng minh và các trường hợp
được miễn, giảm trách nhiệm đối với nhà sản xuất[16].
Tại Hàn Quốc, trước thời điểm ban hành Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc
(năm 2000), vấn đề bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra được áp dụng
theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định trong Bộ luật dân sự
Hàn Quốc[17]. Theo quy định của Bộ luật này, chế định bồi thường theo lỗi bất cẩn
(negligence) được áp dụng[18]. Khi có vụ kiện tụng về trách nhiệm sản phẩm, nguyên
đơn phải chứng minh sự tồn tại của khuyết tật, mối quan hệ giữa khuyết tật và thiệt hại,
lỗi bất cẩn (hoặc lỗi cố ý) của nhà sản xuất. Trong thực tiễn, vấn đề chứng minh lỗi bất
cẩn của nhà sản xuất là rất khó. Chính vì thế, không phải trường hợp nào nguyên đơn
cũng thành công trong việc chứng minh sự tồn tại của lỗi của nhà sản xuất mặc dù có thể
chứng minh được sự tồn tại của khuyết tật và mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật và
thiệt hại xảy ra[19]. Để tăng cường mức độ bảo vệ người tiêu dùng mà Bộ luật dân sự đã
có những quy định bước đầu, Luật Trách nhiệm sản phẩm của Hàn Quốc đã được ban
hành năm 2000 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2002)[20]. Theo quy định của Luật này, chế độ
trách nhiệm nghiêm ngặt được áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm
khuyết tật. Nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn được giảm xuống vì nguyên đơn không
còn phải chứng minh nhà sản xuất có lỗi trong việc sản xuất ra sản phẩm có khuyết tật.
Như vậy, có thể nhận thấy là tại Hàn Quốc đã có sự phát triển chế định trách nhiệm sản
phẩm đi từ nguyên lý về sự bất cẩn đến nguyên lý về trách nhiệm nghiêm ngặt.
Tại Trung Quốc, chế định trách nhiệm sản phẩm trước kia được đánh giá là khá sơ khai.
Hiện nay, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật chất lượng sản phẩm của Trung
Quốc[21] (cùng ban hành năm 1993) và các văn bản pháp luật có liên quan đã có những
quy định về quyền của người tiêu dùng khởi kiện nhà sản xuất hoặc người phân phối khi
sản phẩm của họ có khuyết tật. Nhìn chung, pháp luật quốc gia này đã có sự chấp nhận
đối với nguyên lý về trách nhiệm nghiêm ngặt. Cụ thể, theo quy định tại Điều 112 Luật

cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng các nguyên lý
này sẽ còn tiếp tục được phát triển và lan toả mạnh mẽ hơn nữa, bởi sự biến đổi của nền
kinh tế thị trường hầu như không bao giờ ngừng nghỉ./.
* Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp.
** Nghiên cứu viên, Ban NCPL Dân sự - Kinh tế, Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp.
[1] Bộ pháp điển hóa (Restatements of law) là tập hợp các qui định của pháp luật Hoa Kỳ
có kèm các án lệ, được sắp xếp theo các lĩnh vực. Bộ pháp điển này do Viện Luật Hoa Kỳ
(American Law Institute) biên soạn, có giá trị tham khảo và viện dẫn rất lớn trong thực
tiễn pháp luật của Mỹ.
[2] Chi tiết tại :
http://findarticles.com/p/articles/m 04/ai_n8845101
[3] Có một số nhà nghiên cứu khác cho rằng nên dịch cụm từ ”in privity doctrine” là tính
tất yếu của quan hệ hợp đồng cho dễ hiểu hơn. Nhìn chung, cách dịch nào cũng không
làm ảnh hưởng đến bản chất của học thuyết này, đó là việc bồi thường chỉ đặt ra đối với
các quan hệ trong hợp đồng chứ không đề cập đến quan hệ bồi thường ngoài hợp đồng.
[4] Xem thêm về privity of contract để hiểu thêm về học thuyết này tại:
http://en.wikipedia.org/wiki/Doctrine_of_privity
[5] Xem thêm tại:
http://en.wikipedia.org/wiki/Winterbottom_v_Wright
[6] Xem thêm tại:
http://en.wikipedia.org/wiki/Henning omfield_Motors
[7] Xem thêm tại:
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of (1%E2%80%93186)
[8] Directive 85/374/EEC on the approximation of the laws, regulations and
administrative provisions of the Member States concerning liability for defective
products.
[9] Directive 1999/34/EC of the European Parliament and of the Council of 10 May 1999
amending Council Directive 85/374/EEC on the approximation of the laws, regulations
and administrative provisions of the Member States concerning liability for defective
products.

chế định Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, 2009, trang 7.
[20] Sự ban hành Luật Trách nhiệm sản phẩm được coi là một sự thắng thế của phong
trào bảo vệ người tiêu dùng ở Hàn Quốc trong những năm gần đây. Ngoài ra, ở Hàn
Quốc, cũng đang có những nỗ lực vận động về việc ban hành đạo luật cho phép hình thức
khởi kiện tập thể, tạo điều kiện cho người tiêu dùng Hàn Quốc có thêm công cụ bảo vệ và
thực thi quyền lợi hợp pháp của mình (Nguyễn Văn Cương, tlđd).
[21] Luật này được sửa đổi vào năm 2000 và hiện nay đây là căn cứ chủ yếu để giải quyết
các vụ việc liên quan tới sản phẩm có khuyết tật.
[22] Nguyễn Văn Cương (Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp), Giới thiệu về chế định
Trách nhiệm sản phẩm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, 2009, trang 12.
[23] Jens Ole Rauh, “Product Liability in China and lessons learnt from Sanlu”, Business
Forum China, dated 10/7/2009 (http://china.ahk.de/en/news/single-v ticle/1212/82/).
[24] Chính nguyên lý này thể hiện được sự nghiêm khắc trong hệ thống pháp luật trách
nhiệm sản phẩm của một quốc gia nào đó.
[25] Như đã phân tích ở phần trên.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status