Quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Pdf 25



PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
1
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
2
3.
Mục đích đề tài và phạm vi nghiên cứu
4
4.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
4
5.
Kết cấu của luận văn
5 Chương 1
Những vấn đề cơ bản quản lý nhà nước
về hoạt động khoa học và công nghệ

1.1.
Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công
nghệ
5
1.1.1
Khái niệm về quản lý nhà nước
5

Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khoa học
và công nghệ

29
2.1.1.
Bộ Khoa học và Công nghệ
29
2.1.2.
Trách nhiệm của của các Bộ, ngành thực thiện
chức năng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ

30
2.1.3.
Cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước khoa học và công nghệ ở địa phương
31
2.2.
Chính sách phát triển khoa học và công nghệ
31
2.2.1.
Các yêu cầu quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
31
2.2.2.
Những vấn đề cơ bản của cơ chế quản lý hoạt động khoa học
và công nghệ trong giai đoạn hiện nay

33
2.3.
Xây dựng quy trình tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ
35
2.3.1.

Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
50
2.5.1.
Về bộ máy quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
50
2.5.2.
Những hạn chế về cơ chế, chính sách hiện hành
55
2.5.3.
Những hạn chế trong công tác quản lý hoạt động khoa học và công
nghệ

58 Chương 3
Phương hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh
quản lý nhà nước về hoạt động khoa học
và công nghệ trong giai đoạn hiện nay

3.1.
Nhu cầu tăng cường quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá

62
3.1.1.
Những vấn đề cơ bản đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
62
3.1.2.
Hoạt động khoa học và công nghệ đặt ra đối với

75
3.2.6.
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra
đối với hoạt động khoa học và công nghệ

75
KẾT LUẬN
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có cơ sở học thuật
dựa trên những kết quả nghiên cứu về quy luật vận động của hoạt động khoa
học và công nghệ. Nhờ những hiểu biết ngày càng phong phú hơn về các quy
luật vận động đó mà người ta có những chính sách tương ứng hợp quy luật,
giảm bớt những việc làm duy ý chí không phù hợp với quy luật, để mục đích
cuối cùng là nâng cao hiệu quả của toàn bộ nhân, tài, vật lực đầu tư cho khoa
học và công nghệ.
Việc nghiên cứu những xu thế, hiện tượng trong các hoạt động khoa học
và công nghệ từ lâu đã thu hút chú ý của bản thân các nhà khoa học và các
chính trị gia. Tự nhận thức về hoạt động khoa học như một hiện tượng cần
nghiên cứu đã làm nẩy sinh sự tranh luận về một bộ môn mới của khoa học.
Đặc biệt phải kể đến sự ra đời của những phương pháp lượng hóa hoạt động
nghiên cứu, điều mà làm cho nghiên cứu có căn cứ khoa học đầy đủ của nó.
Chẳng hạn, Science Citation Index, các công cụ thông tin thư mục, hệ thống
thống kê khoa học của UNESCO và các quốc gia trên thế giới là những công
cụ không thể thiếu của những nghiên cứu khoa học luận nghiêm túc. Qua
hàng loạt nghiên cứu như vậy người ta hiểu rõ hơn về đặc thù của nghề

lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều đề tài đã nghiên cứu về cơ chế, chính sách, quản lý
nhà nước về khoa học và công nghệ, nhưng nhìn chung các đề tài đã tập
chung nghiên cứu sâu từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý nhà nước về
khoa học và công nghệ như: Nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ
của Việt Nam phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực (đề tài cấp Bộ 2003
do TS. Nguyễn Danh Sơn làm chủ nhiệm đề tài); Nghiên cứu hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý khoa học và công nghệ của các Bộ trong tiến trình cải
cách hành chính (đề tài cấp bộ 2002 do TS. Ngô Tất Thắng làm chủ nhiệm đề
tài); Nghiên cứu quá trình tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ của các
Viện nghiên cứu – triển khai thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia (đề tài cấp Bộ 2000 doTS Nguyễn Thanh Thịnh làm chủ
nhiệm đề tài). 50 năm khoa học và công nghệ Việt Nam 1945-1995, NXB
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1995; GS, Viện sĩ Đặng Hữu (chủ biên) Khoa
học và Công nghệ với sự phát triển kinh tế – xã hội, NXB Sự thật, 1989;
Nghiên cứu khoa học phương pháp luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1999; GS Vũ Cao Đàm (chủ biên) Phương pháp luận nghiên
cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000.
Dưới góc độ nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước đối với nguồn nhân 3
lực hoạt động khoa học và công nghệ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ trong hệ thống y tế ngành công nghiệp (Luận văn thạc
sĩ 2004 của tác giả Ninh Văn Thức); Luận cứ khoa học cho việc đổi mới một
số chính sách sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan
nghiên cứu - triển khai (đề tài cấp bộ 1999 do Ths Trần Trí Đức làm chủ


4
những vấn đề sau:
- Đưa ra được những cơ sở lý luận của hoạt động khoa học và công nghệ.
- Nghiên cứu, xác định được những đặc trưng cơ bản của hoạt động quản
lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công
nghệ.
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động khoa
học và công nghệ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài luận văn được tác giả nghiên cứu với cách tiếp cận ở các lĩnh vực
khác nhau của hoạt động quản lý khoa học và công nghệ dựa trên cơ sở
phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương
chính sách của Đảng, các quy định của nhà nước. Ngoài ra tác giả còn sử các
phương pháp khác như: nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp,
diễn dịch một số lĩnh vực của hoạt động quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản quản lý nhà nước về hoạt động khoa
học và công nghệ.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công
nghệ.
Chương 3. Phương hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh quản lý nhà nước
về hoạt động khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay. 5 6

Hình 1.1. Sơ đồ lôgíc của khái niệm quản lý
Với cách hiểu như trên, quản lý bao gồm các yếu tố (điều kiện) sau:
- Phải hướng tới một mục tiêu;
- Thông qua con người;
- Với kỹ thuật, công nghệ;
- Hoạt động bên trong của một tổ chức.
Các dạng quản lý
Có nhiều dạng quản lý khác nhau tuỳ thuộc theo cách tiếp cận. Từ góc độ
của hành động, góc độ quy trình công nghệ của tác động quản lý hành chính
là sự điều khiển của con người lên các đối tượng. Theo cách tiếp cận này,
quản lý được phân thành ba dạng chính, tuỳ vào đối tượng quản lý như sau:
- Đối tượng quản lý là các vật vô tri vô giác (nhà xưởng, hầm lò, thiết bị
máy móc ) và con người điều khiển chúng thực hiện theo ý chí của con người
điều khiển. Dạng quản lý này được gọi là quản lý giới vô sinh hay quản lý kỹ
thuật.
- Đối tượng quản lý là các vật hữu sinh (cây trồng, vật nuôi ) và con
người điều khiển chúng để bắt chúng phát triển và thực hiện theo ý chí của
người điều khiển. Dạng quản lý này gọi là quản lý giới sinh vật.
- Đối tượng quản lý là con người (bao gồm tổ chức, đoàn thể, xã hội và
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ…). Đây là dạng
quản lý xã hội con người. Đối với dạng quản lý này, nếu xét từ góc độ của
chủ thể quản lý (nhà nước, chủ doanh nghiệp ), chúng ta sẽ có các dạng khác,
cụ thể hơn của quản lý xã hội con người. Đó là quản lý nhà nước và quản lý
doanh nghiệp

Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí
quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành
sản phẩm
Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa
Những việc
khởi đầu
Những việc
trù bị
Những việc
thực hiện
Những việc
định lƣợng
LẬP KẾ
HOẠCH
(phải làm gì)
TỔ CHỨC
PHỐI HỢP
(ai làm? làm
cách nào?)
ĐIỀU KHIỂN
KIỂM TRA
(gây ảnh hưởng
lên cách làm, và
bảo đảm thực thi)
Lƣợng giá
(khâu hoạch định)
trù bị
(khâu kiểm định)
Hình 1.2. Sơ đồ quá trình quản lý


hành tháng 6-2000 và có hiệu lực từ 1-1-2001, có dành cả một chương
(Chương VI) quy định những nội dung của quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ.
Theo nghĩa đó, quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ
hiện đại là sự vận dụng có ý thức bởi chủ thể quản lý, những qui luật và đặc
điểm của phát triển tự thân của khoa học và công nghệ và tác động qua lại của 9
khoa học và công nghệ với toàn bộ các hoạt động khác của xã hội. Các quy
luật này được khái quát hoá từ các nghiên cứu của một số bộ môn như xã hội
học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, lý thuyết hệ thống, v.v . Quản lý
hoạt động khoa học và công nghệ suy cho cùng là nhằm thực hiện một cách
hữu hiệu nhất mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ và các mục tiêu của
công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Nói tóm lại, quản lý nhà nước về hoạt
động khoa học và công nghệ bao gồm những hoạt động về ra quyết định và
việc thực hiện các quyết định trên các mặt chiến lược, chính sách, kế hoạch,
tổ chức, chỉ huy, điều hòa, phối hợp, kiểm tra, thanh tra và điều chỉnh đối với
công tác khoa học và công nghệ.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
Cũng giống trong quản lý kinh tế, quản lý khoa học và công nghệ có
những nguyên tắc chỉ đạo nhất định. Trên cơ sở những nhận thức trên đây, có
thể rút ra những nguyên tắc trong quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ . Những nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của đối tượng quản lý là
hoạt động khoa học và công nghệ. Mỗi nguyên tắc trên thực tế không vận
dụng riêng rẽ mà phối hợp nhuần nhuyễn với các nguyên tắc khác mới có thể
phát huy tác dụng trong thực tế.
Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế
Nguyên tắc này có tính bao trùm, người làm quản lý khoa học và công
nghệ phải luôn luôn tạo ra điều kiện để gắn các hoạt động khoa học và công

trung vào một loại việc, trên cơ sở đó phối hợp với nhau phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn bộ hệ thống. Trung ương không làm thay công việc của địa
phương. Địa phương không dập khuôn máy móc theo cách tổ chức ở trung
ương.
Nguyên tắc tham gia của cộng đồng
Tiến bộ khoa học và công nghệ về bản chất, là một quá trình xã hội. Mỗi
thành viên của cộng động dân cư đều có vai trò nhất định trong quá trình đó
theo cơ chế hút-đẩy nói trên. Các quyết định trong quản lý nên cho dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Hiệu quả sẽ được nâng cao vì cơ chế đó có
tác dụng kiểm soát xã hội, phát huy sáng kiến cộng đồng cho các hoạt động
khoa học và công nghệ. Nguyên tắc đấu thầu trong nghiên cứu, ứng dụng
khoa học và công nghệ là một trong những cơ chế để thực hiện dân chủ trong
khoa học. Ai cũng có quyền tham gia, từ đó chọn người giỏi nhất, hiệu quả
nhất. Trên tầm vĩ mô, công việc quản lý khoa học và công nghệ không thể
khoán trắng cho một bộ, một ngành chịu trách nhiệm, mà phải được các bộ
các ngành tham gia, đề xuất, thực hiện. Mỗi đề án phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội đều phải quan tâm đến nội dung khoa học trong đó, phải nghiên cứu
nếu cần thiết, phải đầu tư cho công tác khoa học để phục vụ lại chính mình.
Nguyên tắc xã hội hoá trong quản lý khoa học và công nghệ đang có ý nghĩa
thời sự lớn đối với sự phát triển, đầu tư cho khoa học và công nghệ nước ta. 11
Nguyên tắc kế thừa và phát triển, tuần tự kết hợp với nhảy vọt
Sự phát triển của công nghệ luôn luôn có tính kế thừa. Chỉ lĩnh hội được
thành tựu của thế hệ trước, những nước đi trước ta mới làm ra được kết quả
thực sự có ý nghĩa mới, sáng tạo. Sự sáng tạo có kế thừa là sáng tạo gấp đôi,
gấp ba cái đáng ra có thể làm được, và do vậy nâng hiệu quả lên gấp bội phần
tương ứng. Trong quản lý cần có biện pháp tránh trùng lắp những cái đã được
người khác, nước khác nghiên cứu, mà phải kế thừa những cái đó. Trên tầm vĩ

phải tập trung sức vào việc giải quyết thích nghi các cơ cấu và ứng xử trong
một thế giới đang đột biến . Theo quan điểm này thì khoa học xã hội có vai
trò rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế, ở cấp vĩ mô khoa học xã hội cần
phải được ưu tiên hàng đầu để biến đổi các cơ cấu xã hội và các lối ứng xử đã
lỗi thời. Tương tự, ở cấp vi mô cũng càn tập trung để hoàn thiện công nghệ tổ
chức quản lý và công nghệ tiếp thị theo khái niệm đổi mới của Schumpeter (là
học giả người Áo tác giả tác phẩm “chu kỳ kinh doanh”).
Kinh nghiệm thành công của các nước phát triển cũng như các nước
mới công nghiệp hoá ở Đông á, Ấn Độ và một số nước đang phát triển và đã
gặt hái được những thành công nhất định, cho thấy một đất nước đầu tư cho
đổi mới nhưng thiếu chính sách hợp lý ở cấp vĩ mô, thiếu một chiến lược phát
triển kinh tế xã hội khôn ngoan thì khó gặt hái được những thành công. Khoa
học xã hội, một mặt đưa ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thích hợp,
mặt khác góp phần xây dựng, thiết kế các chính sách khả thi nhằm thực hiện
chiến lược đã đề ra. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ
và tác động có nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước trên thế
giới đã trải qua những thời kỳ ảnh hưởng khác nhau. Xu thế tác động cũng
không giống nhau và kết quả cũng như mức độ tác động cũng rất khác nhau ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Lịch sử phát triển khoa học và công nghệ cho thấy, ở thời kỳ đầu nhờ
hoạt động thực tiễn, dần dần con người tích luỹ được những kinh nghiệm dẫn
đến sự ra đời của khoa học. Điều đó có ý nghĩa sản xuất đi trước công nghệ và
công nghệ lại đi trước khoa học. Cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của
khoa học ngày càng tăng lên trong xã hội hiện đại, khoa học ngày càng có vai
trò với sự phát triển. Theo nhận xét của C. Mác, cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, việc sản xuất ra của cải vật chất ngày càng ít phụ thuộc hơn vào
thời gian lao động, vào lượng lao động phải bỏ ra, mà trước hết phụ thuộc vào
trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật hay vào sự ứng dụng của
khoa học vào sản xuất.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh những bước

Trong thực tế, song song với những cống hiến to lớn cho sản xuất và đời
sống, do nhận thức không đầy đủ và áp dụng lệch lạc những thành tựu khoa
học và công nghệ, vấn đề gây ô nhiễm và suy thoái môi trường đã gây hậu
quả nghiêm trọng cho nhiều nước. Những hậu quả này chỉ có thể khắc phục
bằng khoa học và công nghệ. Như vậy, không phải bất kỳ công nghệ nào cũng
là tiến bộ công nghệ, Ngày nay đang phổ biến quan điểm là tiến bộ công nghệ
phải đi đôi với tiến bộ xã hội. Vì vậy hoạt động khoa học và công nghệ phải
khuyến khích nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ
của thế giới với tư cách vừa là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là giá trị văn
hoá để phục phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời
phải xem xét lại cách tiếp cận để đánh giá các giá trị văn hoá truyền thống,
xây dựng các chuẩn mực, bảo vệ và phát huy những giá trị có ý nghĩa quan 14
trọng trong thời đại ngày nay mà thường bị lãng quên và loại bỏ những định
kiến, phong tục tập quán đã lỗi thời gây trở ngại cho việc tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của thời đại.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ
1.2.1. Đặc điểm quản lý nhà nƣớc về khoa học và công nghệ
Một trong những chức năng cơ bản của nhà nước là quản lý công việc
đất nước thông qua một nền hành chính công. Nhà nước thực hiện những
chức năng cơ bản như việc giữ gìn hoà bình, đảm bảo hạ tầng cơ sở pháp luật,
các lợi ích công như quyền sở hữu, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ môi trường,
phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, kiểm soát các đại dịch bệnh truyền nhiễm,
bảo hiểm xã hội, xoá đói giảm nghèo, phân phối lại phúc lợi xã hội. Nhà nước
là người bảo vệ quyền lợi cộng đồng dân tộc trong bối cảnh cạnh tranh toàn
cầu, hội nhập kinh tế quốc tế.
Mọi lĩnh vực, bất kể tính chất phức tạp đến đâu, nếu có quan hệ đến lợi

thành việc đại sự quốc gia, quốc sách hàng đầu của các chính quyền đương
nhiệm.
Mặc dù khoa học và ứng dụng khoa học, do tính không chắc chắn của
công cuộc tìm tòi, khám phá cái mới, không giống các hoạt động ổn định, lặp
đi lặp lại trong sản xuất thông thường, là một hoạt động có nhiều yếu tố rủi ro
so với các hoạt động khác của con người, ngày nay thực tế đã chứng minh
rằng việc quản lý khoa học và công nghệ là một việc có thể làm được và đang
được làm một cách có kết quả. Điều cần lưu ý là quản lý khoa học và công
nghệ là một lĩnh vực rất đặc thù, khác nhiều so với quản lý các hoạt động
khác trong đời sống. Việc quản lý khoa học và công nghệ đòi hỏi tuân thủ
những quy luật riêng của hoạt động khoa học và công nghệ. Các quy luật có
tính đặc thù này đã được từng bước nghiên cứu đúc rút và tổng kết thông qua
các hoạt động nghiên cứu và thực tiễn ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới.
1.2.1.1. Tính đặc thù của lao động khoa học và công nghệ
Lao động khoa học và công nghệ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp,
là quá trình lao động xã hội đặc thù. Nó là hoạt động của những người có tri
thức chuyên môn đặc biệt, tiến hành thu thập, xử lý, gia công thông tin về các
sự vật trong giới tự nhiên hoặc nhân tạo để có được tri thức lý luận, phương
pháp tác động, đường lối nhận biết thế giới và cải tạo thế giới. Do đó, lao
động khoa học và công nghệ có tính qui luật khách quan và tính đặc thù của
nó.
Công tác nghiên cứu khoa học là một loại lao động trí óc mang tính sáng
tạo, đặc điểm nổi bật của nó là ở tính sáng tạo, đó là linh hồn của công tác
nghiên cứu khoa học là điểm cơ bản nhất phân biệt nó với lao động sản xuất
bình thường tức lao động sản xuất mang tính lặp đi lặp lại.
Quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình mà tri thức vận động từ 16
không đến có, từ ít đến nhiều. Ví dụ, nghiên cứu cơ bản là để phát hiện và

0,90
0,80
0,75
0,60
0,40
0,10
Bảng 1.3 Bảng thống kê tỷ lệ thành công, thất bại của hoạt động KH&CN

Bảng trên đã cho thấy độ rủi ro thất bại của lao động nghiên cứu khoa
học là không thể tránh khỏi, hệ số rủi ro của công tác nghiên cứu khoa học gia
tăng cùng với sự gia tăng mức độ và tính chất phức tạp của các nghiên cứu
khoa học. Đương nhiên, đối với công tác khoa học và công nghệ thất bại cũng
là một loại thu hoạch, hay “kết quả âm tính”, nó có thể cảnh tỉnh người sau,
điều đó nói lên hướng tư duy nghiên cứu không đi đúng hoặc phương pháp 17
không thoả đáng, hay điều kiện, thiết bị hiện có thậm chí lượng tích luỹ tri
thức tương quan không đủ, những cái này là những kinh nghiệm và bài học
cho người tiếp tục nghiên cứu về sau.
1.2.1.2. Đặc tính kế thừa của lao động khoa học và công nghệ.
Khi làm sáng tỏ quan hệ giữa khoa học hiện đại với khoa học cổ Hy Lạp,
Ăng ghen đã từng nói: Bất kể sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại
nào cũng đều tìm thấy hình ảnh của nó thu nhỏ trong manh nhà khoa học thời
cổ dại Hy Lạp. Nói cách khác, hoạt động nghiên cứu khoa học hiện đại đều
không tách khỏi sự kế thừa thành quả lao động khoa học và công nghệ của
người đi trước, nó đều được tiến hành trên cơ sở sáng tạo của người khác
hoặc người đi trước, những tri thức mới mà họ sáng tạo ra cũng tất nhiên cũng
sẽ được người khác hoặc người đời sau kế thừa và phát triển. Lấy giai đoạn
khác nhau của hoạt động khoa học và công nghệ làm ví dụ nghiên cứu cơ bản,

Đây là công cụ quan trọng nhất trong quản lý nhà nước KH&CN. Mọi
chủ trương, đường lối chiến lược, định hướng của chính phủ đều được thực
hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, có giá trị bắt buộc đối với
đối tượng cần quản lý. Việc chậm hoặc không được thể chế hoá các chủ
trương này là biểu hiện của sự bất cập lớn trong phương pháp quản lý.
Phương pháp này quan trọng tới mức đã trở thành chức năng thường xuyên
của bộ máy quản lý nhà nước.
Các công cụ hành chính
Tương tự như công cụ pháp chế, công cụ hành chính trong tay các cơ
quan quản lý là quyền hạn đặc biệt chỉ các cơ quan hành chính mới có nhằm
điều hành hoạt động. Phương pháp này phát huy tác dụng trực tiếp và nhanh
chóng khi thực hiện các quyết định quản lý. Nhưng do tính chất trễ nhịp và
tính không thể tách rời của nhiều hoạt động khoa học khỏi các hoạt động kinh
tế-xã hội khác nên biện pháp hành chính có giới hạn nhất định. Việc lạm dụng
các biện pháp hành chính sẽ gây tác động tiêu cực đến phát triển lâu dài của
khoa học nếu không cân nhắc kỹ.
Các công cụ kinh tế
Biện pháp kinh tế rất có hiệu quả, tác dụng lâu dài, nhưng do tính không
tách bạch của KHCN với sản xuất nên khó áp dụng. Ngoại trừ các biện pháp
đầu tư tài chính là những biện pháp trực tiếp, thông thường chỉ được vận dụng
tổng hợp trong các gói biện pháp của tổ chức sản xuất kinh doanh mà không
áp dụng riêng cho KHCN nào đó. Chẳng hạn miễn thuế, trợ giá, cho vay lãi
suất ưu đãi thực chất là những biện pháp đầu tư tài chính gián tiếp của chính
phủ cho nghiên cứu-triển khai thường nằm trong các “gói” chính sách chung,
không thể dành riêng cho một cơ quan, cá nhân nào.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về hoạt động khoa học và công
nghệ 19

hướng xuất khẩu lớn cho nền kinh tế. Vì thế đối với chiến lược thì quan trọng
nhất là lựa chọn đúng mục tiêu chiến lược, điều này quyết định thành bại của
toàn bộ hoạt động khoa học và công nghệ trong giai đoạn nhất định.
Quản lý mà không có chiến lược thì không rõ mục tiêu đại cục, có khi 20
đưa đến mâu thuẫn, quanh co, giảm hiệu quả chung cho toàn bộ sự nghiệp.
Ngược lại, chiến lược rõ, chính xác thì rút ngắn được con đường phải đuổi kịp
theo kiểu “đi tắt, đón đầu”, bỏ qua những bước đi trung gian không cần thiết
phải đi để nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã vạch ra những định hướng
chiến lược lớn cho khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2020. Trong đó
xác định những mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng nhất cho toàn ngành cũng
như một số lĩnh vực quan trọng, đây là bước kế thừa và phát triển các nhiệm
vụ trong các giai đoạn cách mạng trước đây xung quanh việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất và nâng cao
năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ.
Mục tiêu bao quát chung của định hướng là làm sao để nước ta trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020, khoa học và công nghiệp vừa là công
cụ vừa là tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hoá. Một trong
các nội dung chủ yếu của nó là phải đưa ra được “lộ trình công nghệ” có một
mốc từng giai đoạn từ thấp lên cao của năng lực nội sinh: nhập, làm chủ, thích
nghi và sáng tạo công nghệ. Mặt khác, phải bảo đảm phát triển bền vững về
sinh thái, về xã hội và về tốc độ tăng trưởng. Chiến lược hiện nay chính là sự
thích ứng với giai đoạn cách mạng mới với các nhân tố mới như nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần; vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách mở làm bạn với tất cả các
nước.
Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về hoạt động

đi thẳng vào công nghệ tiên tiến nhất mà chúng ta có thể đầu tư cũng như làm
chủ.
Bốn là, nền công nghệ tiên tiến, như kinh nghiệm cho thấy phải được
gánh đỡ trên đội ngũ những cán bộ khoa học và công nghệ tương xứng, trên
hết trên những ngành công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, hoá dầu, chế tạo máy. Đội ngũ cán bộ
này cần được trang bị những công cụ làm việc đủ tốt để duy trì hoạt động
sáng tạo, cần có các phòng thí nghiệm ngang tầm quốc tế.
Từ những chiến lược này sẽ lấy đó làm nền tảng xây dựng các quy
hoạch và kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ như việc quy hoạch
mạng lưới các viện nghiên cứu, các khu công nghệ cáo, kế hoạch đào tạo cán
bộ khoa học kỹ thuật, quy hoạch các trường đào tạo nhân tài. Kế hoạch phải
được xây dựng theo một cơ chế mới, sao cho các đề án nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ phải xuất phát từ những nhu cầu thực của phát triển công
nghiệp, dịch vụ, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhu cầu cho phát triển
tương lai cũng là một nhân tố quan trọng trong kế hoạch hoá để đảm bảo phát
triển bền vững, lâu dài của khoa học và công nghệ nước ta.
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ là chỗ dựa vững chắc cho 22
việc xây dựng chính sách khoa học và công nghệ. Chẳng hạn như việc xây
dựng chính sách đầu tư và khuyến khích nghiên cứu theo hướng trọng điểm
ưu tiên, chính sách nghiên cứu khoa học, chính sách phát triển công nghệ,
chính sách hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, chính sách quản lý
khoa học và công nghệ đều không thể tách rời khỏi phương hướng chủ đạo
của chiến lược phát triển khoa học và công nghệ. Chiến lược khoa học và
công nghệ, cần phải điều chỉnh có hiệu quả hệ thống nghiên cứu cơ sở và
nghiên cứu ứng dụng với triển khai công nghệ khai thác dài hạn và ngắn hạn;
bố trí hợp lý nhân lực, vật lực, tài lực và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phục

việc hình thành các nhiệm vụ nghiên cứu ban đầu có vị trí vô cùng quan trọng
trong toàn bộ quá trình quản lý hoạt động nghiên cứu – triển khai.
1.2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoa học và công nghệ
Như một chức năng tất yếu của quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ, việc thanh tra kiểm tra để đảm bảo rằng các cơ quan, các đối tượng
quản lý thực hiện đúng những quy định đề ra bởi chủ thể quản lý là một công
việc thường xuyên của các cơ quan quản lý. Việc phát hiện ra những sai phạm
kịp thời sẽ giúp cơ quan quản lý nhanh chóng điêù chỉnh các quyết định, ngăn
chặn những thiệt hại có thể xảy ra đồng thời góp phần giáo dục, cảnh báo
những trường hợp sai phạm tương tự có thể xảy ra trong hệ thống quản lý. Về
mặt nào đó thanh tra kiểm tra là một cơ chế phản hồi ngược trong hệ thống
quản lý khoa học và công nghệ.
1.2.2.5. Quản lý tác hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Mở rộng hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu của phát triển khoa học và
công nghệ. Các nước đang phát triển cần có sự quản lý các mối quan hệ này
phục vụ cho mục tiêu chiên lược và chính sách khoa học và công nghệ. Trọng
tâm của hợp tác quốc tế là vấn đề tạo lập được một môi trường thông thoáng
cho sự giao lưu khoa học và công nghệ phù hợp với yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một mặt tranh thủ nắm bắt những kiến thức
và công nghệ tiên tiến của thế giới thông qua trao đổi, học tập kinh nghiệp của
nước ngoài. Mặt khác chủ động kế thừa những thành tựu đó để tạo thế nâng
cao tiềm lực khoa học và công nghệ trong nước đi tắt đón đầu vươn lên giành
vị thế độc lập tự chủ tránh bị lệ thuộc một chiều vào bên ngoài.
1.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ
1.3.1. Thời kỳ 1958 - 1986
Ngày 29/4/1958 kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá 1, đã quyết nghị thành lập
Uỷ ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) để giúp Chính phủ xây dựng và phát
triển khoa học và kỹ thuật.
Ngày 4/3/1959, thừa uỷ quyền của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status