ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN VỐN (CAR) CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM - Pdf 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN
VỐN (CAR) CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI
VIỆT NAM
GV: Th. Nguyễn Thị Hai Hằng
Lớp: K09404A
Nhóm 1:
1. Võ Thị Như K094040583
2. Lê Thị Quy K094040593
3. Nguyễn Thị Tươi K094040633
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 4 năm 2013
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Hệ thống ngân hàng được coi là “huyết mạch” của nền kinh tế, đóng vai trò quan
trọng nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Bởi vậy, hoạt động ngân hàng cần phải
luôn thông suốt, hiệu quả và an toàn để duy trì sự vận hành trôi chảy các hoạt động trong
nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Quy mô vốn tự có là một trong nhưng tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ an
toàn trong hoạt động dinh doanh ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Tại Việt Nam, sự tăng
trưởng vốn của ngân hàng luôn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản trị ngân hàng
trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện. Các tổ chức như Cơ quan thanh tra
giám sát Ngân hàng, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng như Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam luôn đưa ra nhiều cơ chế, chính sách đánh giá năng lực tài chính của ngân
hàng, trong đó nhấn mạnh việc tăng vốn tự có để đảm bảo an toàn hệ thống tài chính. Đối
với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), quy định cụ thể liên quan đến quyết định đầu tiên
là Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động của Ngân hàng thương mại (NHTM). Tại quy định này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
được xác định là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản và chưa phản ánh chính xác tinh
thần Basel I. Đến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN với tỷ

của hệ thống TCTD/GDP cao hơn nhiều so với các nước có trình độ phát triển tương
đương trong khu vực, cho thấy khi khu vực ngân hàng không thực hiện được tốt chức
năng dẫn vốn với quy mô từng đảm đương thì nền kinh tế tất yếu sẽ bị suy giảm mạnh và
ngược lại, hệ thống ngân hàng dễ dàng bị tổn thương khi kinh tế vĩ mô bất ổn. Tính đến
cuối năm 2011, tỷ lệ tổng tài sản của hệ thống TCTD/GDP đạt 200% và tỷ lệ dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế/GDP đạt trên 100%.
- Tổng tài sản của hệ thống TCTD tăng trưởng nhanh qua các năm, tuy nhiên, rất
không đồng đều giữa các khối và chứa đựng yếu tố “tăng ảo”. Nhìn chung toàn hệ
thống, tài sản của khối NHTMCP thường dẫn đầu, tiếp đến là khối ngân hàng thương mại
nhà nước (NHTMNN), khối nước ngoài bao gồm ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước
ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHLD&Nngoài); sau cùng là khối các TCTD
phi ngân hàng và các tổ chức khác. Điều này hàm ý, tổng tài sản đã bị tăng ảo mạnh và
quy mô bảng tổng kết tài sản thường bị “thổi phồng”.
- Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của hệ thống diễn biến theo chiều hướng xấu đi, khi mà
hoạt động lõi của các ngân hàng - huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức kinh tế
và dân cư để cho vay ra nền kinh tế, ngày càng chiếm tỷ trọng giảm dần tương ứng so
tổng nguồn vốn và tổng tài sản. Nguồn vốn của nhiều TCTD giờ đây phụ thuộc nặng nề
hơn vào thị trường liên ngân hàng và các nguồn vay mượn khác (từ nước ngoài, từ
5
NHNN,…). Hệ số đòn bẩy tài chính gia tăng những năm gần đây cũng chỉ ra quy mô vốn
chủ sở hữu đang giảm sút tương đối so tổng tài sản. Bên vế sử dụng vốn, tỷ trọng đầu tư
vốn trên thị trường, đầu tư giấy tờ có giá, góp vốn, mua cổ phần cũng tăng đáng kể qua
các năm. Điều này đưa đến câu hỏi: phải chăng các NHTM Việt Nam đang sao nhãng
dần bản chất “thương mại” vốn có của nó? liệu có cần các quy định nhằm tách bạch giữa
hai hoạt động ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, khi mà trình độ quản lý của
các cơ quan điều tiết và giám sát thường không theo kịp thị trường?
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng thường rất cao trong những năm trước đây, đã suy giảm
mạnh trong các năm 2010 và 2011(Từ mức 40% năm 2009, xuống 29% năm 2010 và còn
13% năm 2011, rồi -2.1% cuối Quý I-2012) và thậm chí chuyển sang âm trong suốt 5
tháng đầu năm 2012, đi kèm theo là tỷ lệ nợ xấu gia tăng nhanh, đạt mức 10% theo công

- Vốn điều lệ toàn hệ thống đã tăng nhanh, chủ yếu trong giai đoạn 2008 - 2011 theo quy
định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục mức vốn pháp định đối với các
TCTD thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Vấn đề ở chỗ liệu việc tăng vốn có thực
chất? Hiện tượng “nhóm lợi ích” và “sở hữu chéo”/ “sở hữu lẫn nhau” thông qua một
“bên thứ 3” diễn ra khá phổ biến, đã làm cho quy mô vốn điều lệ cũng như tổng tài sản
toàn hệ thống bị tăng ảo. Điều nguy hiểm hơn, tình trạng sở hữu chéo vốn thường dẫn
đến hoặc luôn đi kèm với vấn đề “cho vay nhóm khách hàng liên quan” vượt xa tỷ lệ quy
định - kênh chủ yếu để dẫn vốn tín dụng đến với các dự án nhiều rủi ro (bao gồm các dự
án bất động sản, kinh doanh chứng khoán…).
- Chất lượng tài sản suy giảm nhanh nhưng mức trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) đạt
thấp. Theo các số liệu báo cáo, số dư quỹ DPRR tín dụng đều thấp so với tổng nợ xấu
theo sổ sách. Điều này hàm ý mức độ an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ bị đe
dọa khi rủi ro diễn ra.
- Các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định thực chất không bảo đảm. Tình trạng cho
vay quá mức dẫn đến hệ số sử dụng vốn (tỷ lệ cho vay trên huy động) của các TCTD rất
cao và vượt mức an toàn. Toàn hệ thống luôn trong trạng thái mất cân đối nghiêm trọng
cả về kỳ hạn lẫn đồng tiền giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Các tỷ lệ an toàn chi trả đạt
mức thấp và hệ số an toàn vốn (CAR) thực chất cũng ở mức dưới thông lệ và cả so với
7
yêu cầu (một số TCTD thậm chí có CAR ≤ 0 tức, xét về mặt kỹ thuật, đã mất khả năng
thanh toán/phá sản nhưng vẫn tạo vỏ bọc bên ngoài là chỉ bị khó khăn về thanh khoản.
- Kết quả kinh doanh không thực chất; lợi nhuận ngành ngân hàng có khả năng sẽ suy
giảm nhanh trong thời gian tới. Cơ cấu thu nhập của hệ thống TCTD chỉ ra, lãi của hầu
hết các ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng. Thế nhưng, trong bối cảnh nợ xấu
gia tăng và tín dụng tăng trưởng âm thì nhiều ngân hàng chắc chắn sẽ phải đối mặt với
nguy cơ thua lỗ. Đó là chưa kể, nếu thực hiện phân loại nợ và trích lập DPRR đúng, đủ
và/hoặc tuân thủ thông lệ quốc tế, đồng thời hạch toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế,
thì hiệu quả kinh doanh của các TCTD Việt Nam còn thấp hơn nữa.
Những phân tích, đánh giá, nhận định trên đây cho thấy, hầu hết các TCTD hiện
đang hoạt động kém an toàn, kém lành mạnh hơn và nguy cơ đổ vỡ hệ thống sẽ hiện hữu

hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc
ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988, xuất phát từ
những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà đáng quan tâm
nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức vào thời điểm đó. Do tính thiết thực
của nó nên cộng đồng các tổ chức tài chính, ngân hàng của hơn 100 nước khác cùng
hưởng ứng. Để phù hợp với những thay đổi lớn của thị trường, Basel đã được cải tiến và
sửa đổi lần thứ hai (Basel II) vào năm 2001 và có hiệu lực vào năm 2006. Ủy ban Basel
bao gồm Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 và một số nước có hệ thồng
ngân hàng lớn mạnh hàng đầu thế giới bao gồm Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Itaia, Nhật,
Luxembua, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ đã kí Hiệp ước Basel (Basel
Accord), một cơ quan gọi là Hội đồng Basel về giám sát ngân hàng quốc tế cũng đã được
chính thức thành lập để theo dõi và chỉ đạo việc thực thi Hiệp ước. Ngoài ra, hệ thống
ngân hàng của nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị đồng thuận tham gia
tuân thủ Hiệp ước.
Ủy ban Basel tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế
(BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel (còn gọi la Basle) – Thụy Sĩ. Ban thư kí
thường trực của Ủy ban này cũng có trụ sở làm việc tại Washington DC – Mỹ.
10
Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của một quốc gia
dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định về tài
chính của quốc gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường xuyên
tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt khoảng
cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt
động ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm
hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản:
1.
Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia.
2. Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế.
3. Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực ma Ủy ban thực
sự quan tâm.

lệ CAR này sẽ được điều chỉnh từ 8% lên 9%. Ngoài ra, hiệp ước Basel I còn xác định
các hệ số rủi ro trong các loại rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.

Hạn chế:
Thứ nhất, việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro
chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ như khả năng tài chính của khách hàng)
hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng có
thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đối mặt với các loại rủi ro khác
nhau, ở mức độ khác nhau.
Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết
về
đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Theo Basel I, quy
định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa
dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn).
Thứ ba, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến
các rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại tệ, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động,
Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp
ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt
động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh,
12
Thứ năm, một số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân
hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh
cao và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
1.2.2. Basel II
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không đề
cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng tăng
lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay

hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của
ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro.
Bảng 2.1: Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
14
100%
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh
nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các
khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất động sản,…
∗ Ưu điểm của Basel II so với Basel I
 Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là
“yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội
bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên
tắc thị trường.
 Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các
ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
 Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với
rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công

vốn và hoạt động các ngân hàng như sau:
 Basel III trình bày các kiến nghị của Ủy ban Basel để tăng cường vốn toàn cầu và các
quy định về tính thanh khoản với mục tiêu thúc đẩy khu vực ngân hàng trở nên linh hoạt
hơn. Mục tiêu gói cải cách của Ủy ban Basel là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực
ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế,
bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính cho các
nền kinh tế hiện tại.
 Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoản để
củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu chuẩn
vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất lượng
cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ
tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối
thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng.
∗ Tóm tắt các thay đổi được đề xuất trong Basel III
- Chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được nâng
16
lên:
 Vốn cấp 1: Chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi
nhuận giữ lại
 Các công cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài hòa
 Vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ
- Mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường:
 Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát sinh,
các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao
dịch tài chính
 Nâng cao vốn dự phòng cho các rủi ro
 Giảm các chu kỳ
 Cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị
trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm thanh toán bù

EL : Là khoản tổn thất dự kiến
LGD : Là khoản tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra
PD : Xác suất mặc định
EAD : Rủi ro mặc định đối với khách hàng
- Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu cho hoạt
động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo trong 30
ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi là Tỷ lệ
dự phòng bình ổn.
Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các biện pháp
giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan trọng được
thành lập có hệ thống.
Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5% 2,5% (bảo tồn vùng
đệm) + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và
10,5-13 cho tổng số vốn.
Bảng 2.2: So sánh Basel II và Basel III
18
Chỉ tiêu BASEL II BASEL III
Tỷ lệ vốn cấp 1 4%
Tỷ lệ vốn cốt lõi
trong vốn cấp 1
2% 4.5%
CAR CAR >= 8%
CAR >= 8%
Mức vốn tốt: CAR >= 10%
Mức vốn thích hợp: CAR > 8%
Thiếu vốn: CAR < 8%
Thiếu vốn rõ rệt: CAR < 6%
Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Vốn bảo tồn
vùng đệm

Thông tư 13, được sửa đổi bổ sung tại Thông tư 19. Thông tư 22, cũng điều chỉnh hệ số
rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Về cơ bản, Thông tư 13 và các thông tư sửa đổi có liên quan được các chuyên gia
kinh tế đánh giá là một bước chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển hệ thống tài
chính Việt Nam. Mặt khác, quá trình thực hiện các thông tư trên đã có sự phản hồi từ
nhiều phía xuất phát từ những bất cập.
2.1. Những tiến bộ so với Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN
Thứ nhất, quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng Thông tư. Quyết định 457
quy định quý tín dụng nhân dân cơ sở không chịu sự điều chỉnh của thông tư, thì Thông
tư 13 bổ sung thêm Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Thứ hai, Thông tư bổ sung thêm tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động tại
Điều 18, mục 5 ở mức 80% (đối với ngân hàng) và 85% đối với TCTD phi ngân hàng và
quy định về nguồn vốn huy động tại điểm này đã có sự thu hẹp lại khá lớn so với nguồn
vốn huy động của các TCTD. Sau đó, NHNN đã hủy bỏ quy định trên bởi Thông tư
22/2011/TT-NHNN.
Thứ ba, quy định về việc tăng cường sự quản lý của NHNN đối với các quyết
định sửa đổi bổ sung quy định nội bộ về tiêu chí xác định một khách hàng, nhóm khách
hàng có liên quan, các giới hạn tín dụng áp dụng với một khách hàng hoặc nhóm khách
hàng có liên quan, cũng như yêu cầu các TCTD phải có kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng
của mình.
20
Thứ tư, Thông tư đã bổ sung tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất tại Ðiều 6 bên cạnh tỷ lệ
an toàn vốn riêng lẻ, đồng thời tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ mức 8% lên 9%. Ngoài
ra, cách tính vốn tự có cấp 1 và 2 cũng như cách tính tổng tài sản có rủi ro đã được thay
đổi, nhất là hệ số rủi ro của các tài sản.
Thứ năm, Thông tư đã thể hiện rõ quan điểm của NHNN về việc tăng cường quản
lý các hoạt động kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản, hoạt động đầu tư
vào các công ty trực thuộc của các TCTD tại các Ðiều 5, 6, 7 và 8.
Thứ sáu, Thông tư đã đưa ra một số quy định mới về phương thức quản lý thanh
khoản và tỷ lệ khả năng chi trả của các TCTD tại mục 3, trong đó có việc xây dựng mô

toàn phù hợp với xu hướng phát triển và nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân thủ 25
nguyên tắc thanh tra cơ bản của Uỷ ban Basel.
Thứ năm, trong khoảng thời gian từ năm 2008 trở lại đây, tình hình thanh khoản
của các TCTD có nhiều bất cấp do khả năng quản lý thanh khoản của các TCTD còn kém
cũng như do sự biến động bất lợi của nền kinh tế, Thông tư 13 đã đưa ra một số quy định
được nhận định là mới và sát với quy định của các nước trên thế giới, nhằm tăng cường
khả năng thanh khoản và quản lý khả năng thanh khoản của từng TCTD nói riêng và cả
hệ thống nói chung.
2.3. Một vài bất cập
Thứ nhất, việc đáp ứng được tỷ lệ an toàn theo cách tính của Thông tư 13, vốn
vẫn dựa theo nội dung của Basel 1, chưa chắc đã cải thiện được mức độ an toàn trong cơ
cấu tổ chức hay quản trị của TCTD. Cách tính CAR theo Basel 2 đã cộng cả rủi ro thị
trường và rủi ro tác nghiệp vào mẫu số của công thức:
22
CAR = 8%
Trong khi đó, theo qui định tại Thông tư 13, mẫu số mới chỉ bao gồm Tài sản Có
rủi ro, nghĩa là chỉ tính đến duy nhất rủi ro tín dụng, chưa phản ánh chính xác mức độ rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong khi cả thế giới đang bắt đầu thực
hiện theo lộ trình những tiêu chuẩn mới của Basel 3 thì Việt Nam vẫn đang còn cách rất
xa việc áp dụng các tiêu chuẩn của Basel 2, đây là một điều rất đáng lo. Bên cạnh đó, trên
thực tế hiện nay ở các nước, hệ số CAR của các ngân hàng thường ở vào mức 12%, nên
việc quy định hệ số CAR ở nước ta trên 9% cũng chưa hẳn mang lại một mức an toàn cho
các NHTM.
Thứ hai, một hệ thống tài chính an toàn yêu cầu các ngân hàng có hệ số an toàn
vốn tối thiểu (CAR- capital adequacy ratio) đạt mức yêu cầu. Hệ số này phụ thuộc vào
hai yếu tố, vốn tự có và tổng tài sản có rủi ro. Việc NHNN yêu cầu các ngân hàng tăng
vốn điều lệ lên tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng và tăng CAR lên 9% có thể coi là một vế của kế
hoạch tăng hệ số an toàn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ và
CAR tối thiểu là không đủ, thậm chí có thể còn làm phát sinh thêm những rủi ro. Nếu
ngân hàng tăng vốn điều lệ, đồng thời tổng tài sản có rủi ro tăng lên theo thì hệ số an toàn

Thứ tư, là những bất cập trong quy định về hệ số rủi ro của các tài sản có trong
công thức tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tại Ðiều 5.
- Tại khoản 5.1 về các tài sản có rủi ro bằng 0, đối với các khoản cho vay bằng vốn tài trợ,
ủy thác đầu tư theo các hợp đồng, trong đó TCTD chỉ hưởng phí ủy thác mà không chịu
rủi ro, NHNN nên xem xét bổ sung khoản mục này vào các tài sản có hệ số rủi ro bằng 0.
Về các tài sản có hệ số rủi ro là 250% được quy định tại khoản 5.6, bao gồm các khoản
cho vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay các công ty chứng khoán và các
khoản cho vay nhằm mục đích kinh doanh bất động sản. Mặc dù, hoạt động đầu tư kinh
doanh chứng khoán và bất động sản là những hoạt động đầu tư rủi ro cao, nhưng việc quy
định một hệ số rủi ro duy nhất ở mức cao cho tất cả các khoản vay thuộc các lĩnh vực này
24
là chưa thật hợp lý. Chẳng hạn, khoản cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán có mức
độ rủi ro khác với cho vay cầm cố chứng khoán; mức độ rủi ro của cho vay kinh doanh
bất động sản cũng phân biệt giữa bất động sản đã hình thành và bất động sản hình thành
trong tương lai… Việc áp dụng này sẽ làm tăng tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng lên
rất nhiều, đặc biệt là ở các khoản cho vay bất động sản do các khoản cho vay bất động
sản chiếm khoảng 12,64% dư nợ của hệ thống TCTD, cho vay kinh doanh chứng khoán
chiếm 0,7% dư nợ của hệ thống TCTD. Như vậy, thay vì việc yêu cầu các NHTM nâng
cao chất lượng hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán và bất động sản thì dường
như Thông tư 13 có phần tập trung vào việc hạn chế hai hoạt động này, kể cả với các
hình thức có mức độ rủi ro thấp. Với một thị trường tài chính đang trên đà phát triển như
ở Việt Nam hiện nay, biện pháp này là chưa phù hợp và chỉ có tác dụng hạn chế rủi ro
trong thời gian ngắn mà không đảm bảo phát triển bền vững trong thời gian dài.
- Thông tư 13 phân loại tài sản chưa chi tiết và không tính đến sự khác biệt giữa các mức
độ rủi ro riêng biệt. Ðối với các khoản phải đòi, hệ số rủi ro được xác định dựa trên loại
hình tài sản bảo đảm (giấy tờ có giá, bất động sản,…) và đối tượng (chính quyền Trung
ương, chính quyền địa phương, công ty trực thuộc, các TCTD khác…) mà chưa chi tiết
cho rủi ro theo mức độ tín nhiệm của đối tác hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng, nên
không phản ánh chính xác mức độ rủi ro của các khoản tín dụng. Những khoản tín dụng
đang được xếp nhóm 1 cũng có thể cùng một hệ số rủi ro với những khoản tín dụng đang


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status