luận văn đại học sư phạm hà nội Vận dụng trò chơi học tập dể giáo dục môi trường trong dạy học môn TNXH lớp 2 - Pdf 26

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
“Bảo vệ và cải thiện môi trường của con người là vấn đề lớn làm
ảnh hưởng tới cuộc sống tốt đẹp của mỗi quốc gia và phát triển kinh tế thế
giới là khát khao của các dân tộc và là nhiệm vụ của mọi chính phủ [7]”Vì
vậy có thể nói, môi trường ngày nay đang thực sự lâm vào cuộc khủng
hoảng với qui mô toàn cầu và trở thành nguy cơ trực tiếp đối với cuộc
sống hiện tại và sự tồn vong của xã hội loài người trong tương lai [7].
Chính vì thế mà hiện nay trên toàn thế giới đều có chung nhận định là cần
sử dụng tổng hợp một loạt các biện pháp để giải quyết vấn đề môi trường
như xây dựng một bộ luật bảo vệ môi trường và quản lí theo bộ luật đó; sử
dụng các biện pháp xử phạt hành chính; áp dụng chế độ thuế môi trường
Thế nhưng “sẽ không có một đạo luật hoặc một mức thuế nào có thể bắt
buộc công dân phải tôn trọng môi trường vì sự tôn trọng tự nguyện chỉ có
thể được truyền thụ qua giáo dục.” Bởi vấn đề môi trường còn là vấn đề
của lối sống, của cách suy nghĩ của con người, là những vấn đề có liên
quan đến đạo đức của con người. Cho nên biện pháp giáo dục sẽ có tác
dụng lâu dài và triệt để nhất. Đặc biệt nếu nhìn nhận lâu dài với tầm vĩ mô
thì vấn đề môi trường chỉ có thể giải quyết được một cách triệt để nếu các
tầng lớp thanh niên hưởng được một nền giáo dục mới về môi trường. Bởi họ
là chủ nhân tương lai của trái đất, là người sẽ thực hiện các biện pháp khác để
tiếp tục giải quyết vấn đề môi trường.
Nước ta, không nằm ngoài bức tranh chung về môi trường thế giới,cho
nên đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn lại vấn đề môi trường một cách toàn
diện và khoa học để định hướng thúc đẩy công tác giáo dục môi trường một
cách có hệ thống, cơ bản và thiết thực nhằm đáp ứng được những đòi hỏi bức
xúc hiện tại cũng như sự phát triển bền vững lâu dài và phù hợp với thực tế
phát triển của đất nước. Có thể nói bảo vệ môi trường là vấn đề quốc
1
sỏch.Chớnh vì thế mà trong chiến lược GDMT ở VN, giai đoạn đầu tiên là tập
trung vào HS ở trường phổ thông, thông qua hệ thống trường học. Bởi trường

Trò chơi học tập với tính hấp dẫn tự thõn của mình có tiềm năng lớn
để trở thành một hình thức dạy học hiệu quả kích thích sự hứng thú nhận
thức, niềm say mê học tập và tính tích cực sáng tạo của học sinh. Bởi nhà
sư phạm nổi tiếng N.K.Crupxkaia: “chơi với trẻ vừa là học, vừa là lao
động, vừa là hình thức giáo dục nghiờm tỳc”.
Từ mầm nom lên cấp tiểu học, trẻ em bắt đầu thực hiện một bước quá
độ vĩ đại nhất trong đời: chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi dang hoạt
động chủ đạo là học tập. Cho nên nhu cầu vui chơi của HS lớp Một còn chiếm
ưu thế là điều tất yếu. Nhưng nói như thế, không có nghĩa là HS lớp Hai
không có nhu cầu này. Mà trái lại, đối với HS lớp Hai thỡ: “Trũ chơi vẫn là
phương tiên nhận thức thế giới hết sức nhẹ nhàng, tự nhiên, không gò bó
nhưng mang lại hiệu quả cao. Vì thế có thể nói vận dụng trò chơi học tập
trong dạy học môn TNXH lớp 2 là phương tiện, là con đường thuận tiện nhất
để GDMT cho học sinh bởi tính chất vui chơi học tõp của nó. Thế nhưng
những tài liệu nghiên cứu về vấn đề này lại chưa nhiều.
Xuất phát từ những lí do trên, căn cứ vào ưu thế của việc sử dụng trò
chơi học tập trong dạy học môn TNXH lớp 2, chúng tôi chọn đề tài nghiên
cứu: “Vận dụng trò chơi học tập dể giáo dục môi trường trong dạy học môn
TNXH lớp 2 .”
2. Mục đích nghiên cứu.
Vận dụng trò chơi học tập nhằm nõng cao hiệu quả giáo dục môi
trường trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
- Khách thể nghiên cứu: Giáo dục môi trường thông qua môn TNXH
lớp 2.
- Đối tượng nghiêm cứu: Vận dụng trò chơi học tập để GDMT trong
dạy học môn TNXH lớp 2.
3
4. Giả thuyết khoa học.
Nếu GV biết vận dụng một cách linh hoạt và hợp lí một số trò chơi

7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
-Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát các hoạt động GDMT của
học sinh tại trường tiểu học nhằm tìm hiểu kinh nghiệm sử dụng trò chơi để
GDMT cho học sinh thông qua dạy học môn TNXH lớp 2.
-Phương pháp đàm thoại:
+ Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu quan niệm, thái độ, cách thức tổ
chức dạy học mà họ đã tiến hành nhằm GDMT cho học sinh trong dạy học
môn TNXH lớp 2, những thuận lợi và khó khăn mà giáo viên đã gặp phải.
- Phương pháp điều tra:
+ Điều tra nhận thức giáo viên về các vấn đề môi trường, các hình thức
đã sử dụng để GDMT cho học sinh thông qua môn TNXH cũng như hiệu quả
của nó.
- Phương pháp thực nghiệm: Dựa vào giả thuyết khoa học đã đặt ra
tiến hành thực nghiệm ở trường tiểu học để xem xét hiệu quả và tính khả
thi của việc sử dụng trò chơi học tập để GDMT cho học sinh tiểu học thông
qua môn TNXH lớp 2 như đã đề xuất.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này được dùng để phõn tích và xử lí các kết quả thu được
qua điều tra và thực nghiệm.
8. Những đóng góp mới của luận văn.
1. Xõy dựng được cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng trò
chơi học tập để GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 2.
2. Đã xây dựng và giới thiệu một số trò chơi học tập để GDMT trong
dạy học môn TNXH lớp 2. Đồng thời đã tiến hành phân loại chúng theo tiến
trình bài dạy.
5
3. Đã thiết kế một số kế hoạch bài học nhằm vận dụng trò chơi học
tập đã giới thiệu để GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 2.
4. Đã tiến hành thực nghiệm trên một số trường ở hai địa bàn khác
nhau để kiểm chứng tính khả thi và hiệu quả một số trò chơi đã xây dựng

Sau hội nghị Stôckhôm năm 1973, GDMT đã được đưa vào các
trường học. Có khoảng hơn 1000 chương trình MT và BVMT được giảng
dạy trong 750 trường thuộc 70 nước khác nhau. Tuy nhiên, về mục đích,
nội dung và phương pháp GDMT phải đợi đến nhiều hội nghị quốc tế sau
đó mới được giải quyết và hoàn thiện dần.
Hội nghị quốc tế về GDMT họp tại Belgrade (Nam Tư) vào tháng 10
năm 1975, lần đầu tiên tổ chức Giáo dục khoa học và văn hóa của Liên hợp
Quốc (UNESCO) đã khởi thảo một chương trình về GDMT, qua đó vạch ra
các nguyên lí và chiến lược GDMT cho thế hệ trẻ trên toàn thế giới.
7
Tiếp sau đó, nhiều hội thảo khu vực về GDMT được tổ chức, trong
đó, hội thảo khu vực châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Băng Cốc
(Thái Lan) vào tháng 10 năm 1976 đã đưa ra bốn vấn đề: (1)-chương trình
GDMT; (2)-đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; (3)-GDMT phi chính quy và
vấn đề soạn thảo tài liệu; (4)-xây dựng các phương tiện giảng dạy GDMT.
Hội nghị liên chính phủ về GDMT được tổ chức tại Tbilixi (Grudia)
vào tháng 10 năm 1977 với sù tham gia của 66 quốc gia thành viên
UNESCO. Hội nghị này là đỉnh cao của giai đoạn xây dựng chương trình và
đặt cơ sở cho sự phát triển GDMT trên bình diện quốc tế. Nhiều hội thảo
khu vực lại được tiếp tục trong đó có hội thảo khu vực châu Á - Thái Bình
Dương được tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) vào tháng 9 năm 1980 với sù
tham gia của 17 nước. Tại hội thảo này, các nước đã trao đổi kinh nghiệm
GDMT, đồng thời hội thảo cũng đã nêu ra sự cần thiết phải đưa GDMT vào
các trường đại học và đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng khác nhau (bồi
dưỡng giáo viên dạy đại học, trung học, tiểu học). [11]
Tháng 8 năm 1987, UNESCO và UNEP phối hợp tổ chức hội nghị
quốc tế về GDMT tại Maxtcơva (Nga), với sù tham gia của đại diện hơn
100 nước và nhiều tổ chức quốc tế khác nhau. Hội nghị đã xây dựng chiến
lược quốc tế về chương trình hành động GDMT cho thập kỷ 90 gồm 9 mục
tiêu về tăng cường hệ thống thông tin quốc tế và trao đổi kinh nghiệm, đẩy

nhiệm vụ GDMT trong nhà trường phổ thông, ngay thời kì này, hai đề tài
cấp Nhà nước về GDMT thuộc chương trình Nhà nước 52.02 đã đề xuất các
cải tiến về nội dung chương trình và một số hoạt động ở các trường phổ
thông và một số trường đại học, cao đẳng chủ yếu ở môn Sinh học và Địa lí
[27] . Các hoạt động tìm hiểu tự nhiên và xã hội, chiến dịch làm cho thế giới
sạch hơn đã được các cấp học thực hiện một cách sáng tạo. Các phong trào
trồng cây gây rừng, dọn dẹp chất thải trong khu vực sống, đổ rác đúng qui
định, được đông đảo các nhà trường và học sinh hưởng ứng, góp phần không
nhỏ trong việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc và BVMT sống. Trong 5 năm
1985-1990 đã trồng được 94 triệu cây, gây trồng 8.600 ha rừng, tạo ra sản
9
phẩm hàng trăm tỉ đồng. Theo thống kê của Bộ Lâm Nghiệp, ở nước ta từ
năm 1986 đến 1992, tổng diện tích rừng bạch đàn đã trồng được là 320.000
ha, từ năm 1988 đến 1992 đã trồng được 65.000 ha keo [15].
Từ năm học 1986 đến 1992 các sách giáo khoa Tiểu học, trung học
cơ sở và trung học phổ thông với một số nội dung được cải tiến, trong đó
vấn đề GDMT đã được quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt, bắt đầu từ năm học
2002-2003, việc đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa với nhiều
bài, nhiều mục, nhiều nội dung GDMT được đưa vào nội dung các môn
học tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc GDMT trong nhà trường phổ thông.
Tuy nhiên, hiện tại nhận thức và hành động tiêu cực của đông đảo quần
chúng, trong đó có rất nhiều học sinh vẫn còn là trở lực lớn cho việc BVMT và
thiên nhiên ở nước ta. Do đó việc nâng cao nhận thức cho nhân dân và học sinh
về MT và BVMT cần được quan tâm hơn. Kiến thức MT và phát triển bền
vững phải đưa dần từng bước giúp học sinh có ý thức tự giác từ nhỏ cho đến
hết đời mình. Chúng ta nhận thấy, công tác GDMT ở nước ta những năm qua
tuy đã thu được một số kết quả bước đầu nhưng đang còn nhiều tồn tại và
thiếu sót. Theo đánh giá của các tác giả Đinh Quang Báo và Dương Tiến Sỹ:
"tài liệu phục vụ GDMT còn thiên về cung cấp kiến thức chưa đề cập đến
phương pháp, hình thức GDMT, thiếu phương pháp, biện pháp giáo dục kĩ

Ngọc; “ Giáo dục môi trường qua hình thức dạy học ngoài líp môn Tự
nhiên và Xã hội” của Võ Trung Minh.
- Về vấn đề tích hợp GDMT địa phương thông qua môn học có
“GDMT địa phương qua môn Địa lí líp 8 cho học sinh Quảng Nam - Đà
Nẵng” của tác giả Đậu Thị Hoà; “Tích hợp GDMT địa phương trong dạy
học các môn về Tự nhiên và Xã hội cho học sinh tiểu học ở Daklak” của tác
giả Lê Thị Ngọc Thơm.
Qua đó, ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu GDMT ở tiểu học hiện nay
chưa được nhiều nhà khoa học quan tâm. Các công trình đã nghiên cứu tập trung
vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đề cập đến
11
vấn đề vận dụng trò chơi học tập để GDMT chưa nhiều và đặc biệt là chưa có
công trình nào nghiên cứu vận dụng trò chơi học tập để GDMT trong dạy học Tự
nhiên và Xã hội líp 2.
Tóm lại, qua việc nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy rằng:
- Vấn đề GDMT là một trong những nhiệm vụ được đặt ra cho nhà
trường phổ thông hiện nay.
- Các công trình nghiên cứu về GDMT trong nhà trường phổ thông chủ
yếu tập trung nghiên cứu về nội dung và các giải pháp chung. Một số đề cập
đến vấn đề GDMT qua các môn học và vấn đề tích hợp GDMT địa phương
qua các môn học. Vấn đề vận dụng trò chơi để GDMT trong dạy học các môn
học còn chưa nhiều.
Do vậy, hiện nay, việc nghiên cứu vận dụng trò chơi học tập để
GDMT trong dạy học các môn học ở trường phổ thông và ở tiểu học là điều
hết sức cần thiết và rất cần được quan tâm nghiên cứu.
2. Một số khái niệm cơ bản
2.1. Môi trường
Khái niệm MT đã được đưa ra tranh luận bàn cải từ lâu và được hiểu
theo nhiều cách khác nhau, không thống nhất, vỡ nó phụ thuộc vào quá trình
nhận thức và cách nhìn nhận vấn đề theo các góc độ chuyên môn khỏc

là một khái niệm rộng lớn chứa đựng nội dung phong phú và đa dạng.
Hiện nay khái niệm MT được tổ chức thế giới sử dụng, đó là khái
niệm của UNESCO đưa ra năm 1981. MT con người bao gồm toàn bộ các
hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội do con người tạo ra, trong đó con
người sống và bằng lao động của mình, khai thác những tài nguyên tự
nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người.
Như vậy, dưới các góc độ khác nhau thỡ cú cách nhìn nhận về MT
khác nhau.Nếu khái quát hoá lại ta có thể hiểu khái niệm MT như sau: MT
là toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống xã hội do con người tạo
ra, chỳng cú mối quan hệ mật thiết với nhau, bao xung quanh con người và
13
ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
thiên nhiên.
2. 2. Khoa học môi trường
Trong những thập niên qua, tình trạng suy thoái MT và những hậu
quả của nó đã khai sinh ra khoa học môi trường. KHMT ra đời có nhiệm vụ
giải quyết các vấn đề MT nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của con người.Trong đó, chủ yếu là tìm ra các giải pháp để giải quyết và
điều hoà tốt nhất các mâu thuẫn nảy sinh giữa MT và sự phát triển kinh tế
xã hội, nhất là trong thời đại công nghiệp hoá ngày nay, để đưa xã hội và
MT sống của con người tiến tới trạng thái phát triển bền vững. [21]
KHMT là một khoa học liên ngành và đa ngành [30]
- Các ngành khoa học tự nhiên: Sinh học là khoa học nghiên cứu về
sự sống và các sinh vật, sinh thái học là khoa học nghiên cứu về mối tương
quan giữa sinh vật học và môi trường
- Các ngành khoa học về Trái Đất như Địa lí học, Địa chất học, Địa
chất thuỷ văn, Thuỷ văn học, Hải dương học là các khoa học nghiên cứu về
những thành phần của môi trường tự nhiên
-Các ngành khoa học xã hội, kinh tế, khoa học nhân văn, chính trị,
pháp luật nghiên cứu giải quyết các mối quan hệ trong phát triển kinh tế xã

phương án tối ưu, dựa trên cơ sở các quy luật phát triển của MT để có thể
khai thác sử dụng các tài nguyên có lợi nhất và MT cũng tốt lên hơn.
-Cải tạo phục hồi các nguồn tài nguyên đã bị cạn kiệt. Mục đích của
cải tạo là để phục hồi và nâng cao chất lượng của MT. Ngày nay, nhiệm vụ
cải tạo phục hồi các cảnh quan trở thành các nhiệm vụ rất quan trọng, bởi
vì các cảnh quan tự nhiên đã bị con người khai thác từ lâu
-Chống ô nhiễm và suy thoái MT. Bởi MT ô nhiễm do các chất thải
công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt gây ra đang ngày
càng trầm trọng. Sự ô nhiểm nặng đang làm cho MT bị suy thoái, bị phá huỷ
15
đồng thời gây tác hại nghiêm trọng cho sức khoẻ và sự phát triển của con
người và mọi sinh vật
-Bảo vệ tính đa dạng sinh học và vốn gen di truyền quớ hiếm. Sinh
vật hay những thành viên quan trọng của MT mà sự tồn tại của chúng còn
đảm bảo giữ cho hệ sinh thái được cân bằng ổn định.
-Nghiên cứu cách phòng chống và dự báo các sự cố MT. Bởi xét cho
cùng hoạt động của con người là nguyên nhân gây ra lũ lụt, hạn hán, động
đất, núi lửa, lở núi, tai nạn giao thông,
Nói tóm lại, BVMT như lời kêu gọi sự quan tâm thích đáng và hợp lí
tới MT. Ngay lập tức phải hợp tác với nhau một cách đầy thiện ý trong việc
sử dụng, quản lí nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ tính đa dạng sinh
học, sự cân bằng sinh thái, phòng chống sự suy thoái và ô nhiễm MT.
2. 4. Giáo dục môi trường
GDMT là tiền đề của sự phát triển bền vững.Vỡ GDMT là làm cho
từng người và cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của MT tự nhiên và
nhân tạo, có được tri thức thái độ và kĩ năng thực tế để tham gia có hiệu quả
và có trách nhiệm vào việc tiên đoán và giải quyết các vấn đề MT và quản lí
chất lượng MT.
Hiện nay trờn cỏc tài liệu về giáo dục tồn tại rất nhiều định nghĩa về
GDMT.Cỏch trình bày các định nghĩa nói chung rất đa dạng. Song nếu xét

Con người có nguồn gốc từ động vật bậc cao. Ở loài vật, những kinh
nghiệm săn bắt, tự vệ được hình thành theo bản năng hoặc quan sát. Những
con vật chưa trưởng thành thường tập khả năng đó với nhau hoặc với cha mẹ
chúng. Nếu quan sát ta thường núi chỳng đang “đựa” với nhau, thực chất
chúng đang học kinh nghiệm sống để hoà nhập. Đặc biệt là khả năng tự vệ,
săn bắt. Khi chuyển hoá thành người, những kinh nghiệm ấy vẫn tồn tại, đặc
biệt ở thời kì sơ khai. Theo bản năng, trong quá trình con người tự vệ, săn
17
bắt, hái lượm… đã truyền thụ kinh nghiệm cho nhau, dần dần phát triển
thành trò chơi như ngày nay.
* Nguồn gốc xã hội
Con người tồn tại và phát triển như ngày nay là nhờ quá trình lao
động, sáng tạo và truyền thụ kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Trong
đời sống thường nhật của con người thường diễn ra những hoạt động như
lao động, học tập, sinh hoạt, hoạt động xã hội và những họat động vui chơi
giải trí. Như vậy vui chơi chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống của
chúng ta. Nhìn lại quá trình phát triển của loài người từ xã hội nguyên thuỷ:
con người ăn chung, ở chung, đi săn bắt, hái lượm và trong lúc chờ bữa ăn,
họ đã mô tả lại cuộc săn bắt hái lượm cho nhau xem. Họ nô đùa vui vẻ và
tất cả đã trở thành trò chơi trước những bữa ăn chung. Đến xã hội văn minh
như ngày nay, con người phải giáo tiếp, phải có hiểu biết rộng rãi và trò
chơi đáp ứng được nhu cầu này. Cùng với sự tồn tại và phát triển của loài
người, trò chơi luôn đáp ứng được những yêu cầu của con người trong mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau, luôn phản ánh xã hội và trình độ phát triển của
xã hội. Đặc biệt đối với trẻ em, các hoạt động của xã hội cũng được các em
phản ánh thông qua các trò chơi khác nhau.
Như vậy, bản chất của trò chơi là một hoạt động phản ánh lao động
và cuộc sống của người lớn. Nó là sợi dây nối liền các thế hệ với nhau.
Hoạt động chơi liên quan chặt chẽ với sự phát triển của xã hội và sự thay
đổi vị trí của trẻ em trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy trò chơi được coi

có tính tự lập nào cả, chúng bị cuốn vào dòng chảy của cuộc sống một
cách mù quáng và thờ ơ, nhưng trong trò chơi chúng là những người
trưởng thành đang thử sức lực của mình và tự tổ chức sáng tạo của
mình ”.
-Trò chơi có tính biểu trưng độc đáo- sự hiện diện khởi đầu của sáng
tạo. Một trò chơi thực sự bao giờ cũng có liên quan tới sáng kiến, sáng tạo.
Trong trò chơi, tư duy và óc tưởng tượng của trẻ hoạt động rất tích cực.
19
-Trò chơi mang màu sắc xúc cảm chân thực, mạnh mẽ và đa dạng.
Mặc dù trong trò chơi có thể xuất hiện cả những cảm xúc tiêu cực, nhưng
trò chơi bao giờ cũng mang đến cho trẻ niềm sung sướng, thoả mãn, bằng
lòng. Trò chơi mà không có niềm vui thì không còn là chơi nữa.
Ở phương Tây các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các đặc điểm của trò
chơi trẻ em để phân biệt hành động chơi và các hành động khác.
* Eva Neuman trong luận văn tiến sĩ “The Elementa of play” đã đưa
ra 3 đặc điểm trò chơi:
-Hành động chơi chịu sự điều khiển từ bên trong, cũn cỏc hành động
khác chịu sự điều khiển từ bên ngoài.
-Khi chơi trẻ không chịu phụ thuộc vào hiện thực, nó có khả năng
chế ngự ảnh hưởng từ hiện thực có khả năng giả bộ sẽ không còn là hành
động chơi nếu hành độmg bị trói buộc từ thế giới hiện thực.
- Trò chơi diễn ra từ bản thân người chơi, hành động nảy sinh do áp
lực bên ngoài thì không phải hành động của trò chơi.
* Catherin trong cuốn “play” đã đưa ra 5 đặc điểm hành động chơi:
- Hành động chơi luôn là sự thú vị đối với trẻ.
- Việc tham gia vào trò chơi là sự hào hứng nội tại chứ không bởi
mục đích bên ngoài.
- Chơi là hành động tự do, tự nguyện.
- Trò chơi kéo theo sự tham gia tích cực từ phía người chơi.
- Hành động chơi gần gũi với hành động khác thường trong cuộc

- Phân loại theo số lượng người tham gia thỡ cú: trò chơi cá nhân, trò
chơi theo nhóm nhỏ, trò chơi theo nhóm lớn
- Phân loại theo mục đích tổ chức trò chơi thỡ có: TCHT, trò chơi giải
trí, trò chơi rèn luyện thể lực
Tuy nhiên sự phân loại trên chỉ có tính chất tương đối. Bởi vì bất cứ
loại trò chơi nào cũng đều tác động đến sự phát triển nhiều mặt ở trẻ em và
21
trên thực tế có những loại trò chơi hỗn hợp, tổng hợp của hai hay nhiều loại
trò chơi trên.
2. 5.2. Trò chơi học tập
2. 5. 2.1. Khái niệm
Trong tõm lớ học đại cương và giáo dục học trẻ em đưa ra khái niệm
TCHT như sau:
TCHT là trò chơi có luật và những nội dung cho trước, là trò chơi
của sự nhận thức, hướng đến sự mở rộng, chính xác hoá, hệ thống hoỏ cỏc
biểu tượng đó cú nhằm phát triển các năng lực trí tuệ, giáo dục lòng ham
hiểu biết của trẻ- trong đó nội dung học tập kết hợp với hình thức chơi
2. 5. 2. 2. Các thành phần cơ bản của TCHT:
a. Nhiệm vụ nhận thức- thành phần cơ bản của TCHT: Là nội dung
nhận thức của trẻ do giáo viên xác định dựa vào mục đích dạy học theo nội
dung chương trình giáo dục mẫu giáo, theo đặc điểm nhận thức của trẻ và
phản ánh hoạt động dạy học của giáo viên.
b. Luật chơi: ( quy tắc chơi)- Thành phần cơ bản nhất của TCHT:
luật chơi rất đa dạng:
- Quy định hành động chơi và trình tự các hành động chơi (thường
gồm các hành động khác nhau tạo thành một chuỗi, thường đi kèm với lời
nói).
- Điều khiển quan hệ giữa các bạn chơi.
- Giới hạn hoặc cấm một số biểu hiện hành động hoặc nờu cỏc hình
thức phạt khi vi phạm luật chơi.

- Nguyên nhân quan trọng gây ra hiện tượng xuống cấp MT là do
những hành động và suy nghĩ trước đây của loài người. Nhiều người trong
chúng ta vẫn chưa thấy được lợi ích về sự thay đổi hành vi và thói quen
ứng xử với MT. Ngay cả những người hiểu được cũng không thường xuyên
23
thực hiện ý muốn này. Việc thay đổi thái độ và hành vi của con người đòi
hỏi phải có một chiến dịch tuyên truyền đồng bộ. Trong khi đú,qua trò chơi
rất dễ làm thay đổi thái độ và hành vi về MT.Cũng như, qua trò chơi HS
được luyện tập những kĩ năng những thao tác hành vi đúng đắn về vấn đề
MT, giỳp cỏc em thể hiện hành vi một cách đúng đắn và tự nhiên.
- Qua trò chơi, HS có cơ hội thể nghiệm những chuẩn mực hành vi
BVMT. Chính nhờ sự thể hiện này, sẽ hình thành được ở HS niềm tin về
những chuẩn mực hành vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành
vi BVMT trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, HS sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn
cho mình một cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với MT.
- Qua trò chơi, HS được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện
kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của người khác là phù hợp hay không
phù hợp với chuẩn mực hành vi BVMT.
3. GDMT trong trường tiểu học
3. 1. Vị trí và vai trò của GDMT cho học sinh tiểu học
- Trong chiến lược GDMT ở Việt Nam, giai đoạn đầu tiên là tập trung
vào HS ở trường phổ thông [7]. GDMT cho HS không chỉ đạt kết quả trước
mắt mà còn đạt kết quả lâu dài vì thế hệ trẻ vẫn ở trong quá trình phát triển
nhận thức thái độ và hành vi; họ là thành viên trong nhóm dân cư lớn nhất;
sự thành đạt của họ trong tương lai phụ thuộc vào phát triển bền vững hơn
bất kỡ nhúm dân cư nào khác.
Đồng thời để GDMT cho thế hệ trẻ một cách có hiệu quả nhất là thông
qua hệ thống trường học vì trường học có khả năng thực hiện chương trình
học tập theo khuôn khổ chớnh qui, có cấu trúc và được hỗ trợ chính thức.

các nước sẽ xây dựng mục tiêu riêng cho nước mình, phù hợp với đặc điểm
lứa tuổi, trình độ nhận thức và khả năng hành động của từng cấp học, dựa
trên tiêu chuẩn quan trọng nhất là hành động tích cực của cá nhân và tập
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status