Phân tích và đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính bảo hiểm xã hội tại Việt Nam hiện nay - Pdf 27

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước đối với người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời
sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai
sản, suy giảm khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết.
Chính sách BHXH ở nước ta được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới
thành lập nước, 60 năm qua trong quá trình tổ chức thực hiện, chính sách
BHXH ngày càng được hoàn thiện và không ngừng đổi mới, bổ xung cho
phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Cùng với quá trình đổi mới của
nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986),
chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng có nhiều đổi mới tích
cực.
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH
thực sự là một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển
của đất nước. BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao
động mà còn khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho
xã hội, xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không
ngừng phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng
1
tăng lên, mở rộng cho các đối tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính
sách BHXH tiến tới thực hiện đủ các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch
hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN đảm bảo đã chuyển sang cơ
chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi.
Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho NSNN mà
còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người lao
động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua
BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ trung ương đến địa
phương.
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều
tồn tại cần sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí

huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai
đoạn có sự phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát
triển. Cùng với nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng
cũng phát triển hơn. Khi đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý
nghĩa giáo dục con người hướng thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu
tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau trong cuộc sống. Như vậy xét về bản
chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này đã mang tính có tổ chức và quy
mô rộng rãi hơn.
4
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những
người nông dân không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà
máy ngày càng nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách
mạng công nghiệp thì lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp
công nhân. Nhìn chung họ sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công
việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm, ốm đau, tai nạn lao động đều có
thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã
nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ
các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội
tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích thành lập. Tiếp
đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người
lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai nạn lao động, mất
việc Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với những đòi hỏi
đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính trị của
mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan
tâm đến tình cảnh của người lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải
thiện điều kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động dần được
quy định thành các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước.
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã
giúp các địa phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được

là một chính sách lớn của mỗi quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản
lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi nước mà các quy định
về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời
sống của người lao động.
- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng
lao động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng
được hưởng BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là
thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự
đóng góp trên là bắt buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động,
để gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng
7
đóng góp và đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn
định cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động
Quốc tế ( ILO) cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm
của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế,
sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.”
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi
ích của xã hội đối với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội
đó.
3. Bản chất và chức năng của BHXH.
3.1. Bản chất của BHXH.
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người
lao động khi gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh

của người lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả
năng lao động hay mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao
động tam thời hay dài hạn thì mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường
hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức
hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao
động và cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho
người lao động khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH
thực hiện cả phân phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa
người lao động khoẻ mạnh với người lao động ốm đau, già yếu , giữa
những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập thấp
phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp
phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách
10
kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với
công việc, nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất
lao động xã hội, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời
sống toàn xã hội. Nếu trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện
nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính
sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa
người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã
hội.
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có
những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao
động BHXH đã gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn
giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai
bên đều có lợi, người lao động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng
thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái, tích cực trong sản xuất. Đối với
Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết

nhau nên BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác
nhau. BHXH được xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống
nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ước 102
được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu
về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế.
- Trợ cấp ốm đau.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thai sản.
- Trợ cấp tàn tật.
13
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9
chế độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ
sở điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà
còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh
dưỡng để quy định các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối
tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau
đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.

chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ
và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ
các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của
các bên tham gia BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước.
Hiện nay mức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ
vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ
hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động
được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức
đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy định khác
nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi
16
phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia
đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng
đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy
định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí
BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau:
thứ nhất là chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn
lại là chi trả cho chi phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì
khoản chi thứ nhất là quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các
khoản trợ cấp này cũng được quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng
một cách cụ thể và có sự khác biệt đối với từng chế độ. Tại những nước khác
nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được quy định khác nhau.
6.2. Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên
thế giới mà quỹ BHXH được phân loại khác nhau:
- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.

tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước
những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp
người lao động yên tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát
triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội. Còn
hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH.
Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ yếu liên quan tới việc làm thế nào để
hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện một cách bình thường trước
những biến động của môi trường. Biến động ở đây là những biến động về
đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi
trường kinh tế , những biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người
lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn và
xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lí
19
và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện
mục tiêu của Nhà nước đặt ra.
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ
yếu sau:
- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so
sánh và cân đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến
động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động
một cách thường xuyên nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải
chú trọng tới vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói
chung và BHXH nói riêng vì tính đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí
trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí
tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN và vẫn thực hiện
chính sách xã hội này một cách tốt nhất.
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì
ngành Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời
gian hưởng có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần

2. Nội dung quản lí tài chính BHXH.
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản
sau:
- Quản lí thu BHXH.
- Quản lí chi BHXH.
- Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Quản lí cân đối quỹ BHXH.
2.1. Quản lí thu BHXH.
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công
của quá trình thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm
bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm
được nội dung thu gồm hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng
lao động. Đây là khoản thu lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định.
Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện
hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp
22
cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự
điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà công tác quản lí thu
chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động và người
sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng
chính sau đây:
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ
chức BHXH khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được
quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế
nữa BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy
luật số đông bù số ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia
BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối tượng tham gia cần thực hiện các
công việc sau:
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.

quản lí chi không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể
mà quản lí để tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng
vừa tránh lãng phí lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia
BHXH. Do vậy, để đảm bảo chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp
thời cần có phương thức chi hợp lí, tổ chức thực hiện chi trả cho các chế độ
thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí hoạt động thu trước tiên chúng ta phải
quản lí những đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Đối tượng có thể
hưởng các chế độ chính là bản thân người lao động hoặc người thân trong
gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp là những người lao
động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm mất hoặc giảm
khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các điều kiện
hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp, loại
trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng
góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật, và chính biến cố mà người lao động gặp
phải. BHXH Việt Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ
ràng và hợp lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó
để xử lí các trường hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét
25

Trích đoạn Cơ cấu tổ chức, quản lí của BHXH Việt Nam. Chi quản lí hoạt động bộ máy. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status