Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp - Pdf 27

MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT....................................................................................3
MỞ ĐẦU..............................................................................................................4
Chương I..............................................................................................................7
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU..................................7
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu........................................................................................9
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu.............................................................................................11
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu.....................................................................11
3.1. Vai trò ...........................................................................................................................11
3.2. Đặc điểm.......................................................................................................................13
4. Phân loại nhu cầu đào tạo.....................................................................................................14
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường................................15
5.1. Những nhân tố tích cực................................................................................................15
5.2. Những nhân tố tiêu cực.................................................................................................16
6. Kinh nghiệm về đào tạo theo nhu cầu của một số nước và khu vực trên thế giới..............17
6.1. Khu vực Đông Á...........................................................................................................17
6.2. Châu Âu.........................................................................................................................22
6.3.Trung Quốc.....................................................................................................................22
Chương II..........................................................................................................24
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY........................................................................................................24
I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN GIA VÀ KỸ
THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI..................................................................................................24
1.Quá trình hình thành..........................................................................................................24
2. Chức năng, nhiệm vụ vủa trung tâm................................................................................24
2.1. Chức năng......................................................................................................................24
2.2. Nhiệm vụ.......................................................................................................................25
3. Nhân sự và cơ cấu tổ chức của trung tâm.......................................................................26
VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI....................................................................................28

1

15.Đại học quốc gia ĐHQG
16.Công nghệ thông tin CNTT
17.Công nhân CN

3
MỞ ĐẦU
Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạo (GD-ĐT) của ta hiện
nay là sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân
lực, hay nói cách khác là kết quả GD-ĐT chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường. Đây là căn bệnh đã được nói đến từ nhiều năm qua, từ ngày Đảng và
Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho
đến nay vẫn chưa được khắc phục, nếu không nói là có xu hướng trầm trọng
hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế. Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép"
của một nền giáo dục vừa nặng về hư danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu
giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với
xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm
trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình
trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra
trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công
nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ,
đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…Cùng với quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại
học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng
chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý
nghĩa của nó. Rõ ràng, với áp lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO,
nếu chúng ta không khẩn trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào
trung tâm của dòng chảy phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong
GD-ĐT và nguồn nhân lực nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực

cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con đường này.

5
Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài:
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp”
Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu
Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam
Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta
Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên
bài viết của tôi khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những sự góp
ý của thầy, cô và những ai quan tâm đến vấn đề mà tôi nghiên cứu.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn tôi
hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.

6
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU
Quan điểm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội ở nước ta đã
xuất hiện từ rất lâu song để nhận thấy hết được ý nghĩa của nó thì phải đến giai
đoạn hiện nay vấn đề này mới thực sự được quan tâm và trở thành vấn đề lớn
của cả nước. Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương
Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996),
Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt mở rộng
quy mô, nâng cao dân trí và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh
vực đào tạo trong những năm tiếp theo là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH).
Hay trong bài phát biểu của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại Hội
nghị giáo dục đào tạo (năm 1996), Bà đã nhấn mạnh: “Ở thời đại CNH – HĐH

với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng
lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để
chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác
- Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm
nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh
nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá
nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào
tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được
những yêu cầu này.
- Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho
họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm
xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc…
Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt.

8
Như vậy vấn đề đào tạo theo nhu cấu thực sự trở thành một vấn đề cấp
thiết với nước ta không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai đặc biệt khi
nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
WTO thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng bội phần, nó góp phâng quan
trọng vào việc tạo ra một lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu của các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài khi
đầu tư vào Việt Nam, giảm bớt được một lượng đáng kể số người thất nghiệp
trên thị trường đồng thời còn hạn chế được tình trạng trong khi số lượng người
thất nghiệp trong nước tăng mà vẫn phải thuê lao động từ nước ngoài về làm
việc.
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay, khái niệm đào tạo theo nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và
chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu xã hội
gồm: đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử
dụng lao động và nhu cầu của người học. Song cũng có quan điểm cho rằng:

đó.
Đào tạo bao nhiêu? Bao nhiêu ở đây muốn nói đến số lượng con người
mà chúng ta sẽ đào tạo trong một thời kỳ sao cho đủ để đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Để xác định được một cách chính xác con số này không phải là điều đơn
giản. Con số này không chỉ dừng lại ở con số chung chung cho toàn xã hội mà
điều quan trọng là chúng ta phải xác định rõ xem ứng với mỗi ngành nghề cụ
thể con số này sẽ là bao nhiều. Đây là điều khiến cho các nhà hoạch định cảm
thấy rất khó khăn bởi lẽ xã hội luôn biến đổi không ngừng, ngành nghề hôm nay
thịnh hành thì ngày mai lại có thể trở nên quá nhàm chán và một ngành nghề
mới lại xuất hiện và lên ngôi. Vì vậy việc xác định cụ thể số lượng đào tạo trong
mỗi ngành nghề có ý nghĩa rất quan trọng, tránh được tình trạng thất nghiệp do
thừa nhân lực ở khu vực này và thiếu nhân lực ở khu vực khác do không dự báo
được hết nhu cầu xã hội.
Như vậy, với cả 3 câu hỏi trên muốn tìm được câu trả lời chuẩn xác phải
căn cứ vào nhu cầu xã hội. Hay nói chính xác nhu cầu của xã hội sẽ là cái mốc

10
để giáo dục - đào tạo dõi theo và điều chỉnh phương thức hoạt động của mình
cho phù hợp.
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay trên thị trường tồn tại 2 loại hình đào tạo theo nhu cầu:
- Đào tạo theo nhu cầu hiện tại của thị trường: tức là căn cứ vào nhu cầu
hiện tại của thị trường đang thiếu lao động trong những ngành nghề gì thì đào
tạo những ngành nghề đó và việc đào tạo này thường được tổ chức thành các
lớp đào tạo ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng). Ưu điểm của loại hình đạo tạo này là
đáp ừng ngay được nhu cầu lao động của thị trường, tuy nhiên nó có nhược
điểm lớn là những lao động được đào tạo ra thường có tay nghề không cao nên
sau một thời gian làm việc nếu không có sự bổ sung kiến thức thì dễ bị đào thải
do không còn đáp ứng được yêu cầu cao hơn của công việc
- Đào tạo đáp ứng nhu cầu tương lai của thị trường: theo hình thức này

đào tạo theo nhu cầu xã:
- Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với
yêu cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt
ra. Khi đã tiến hành đào tạo theo nhu cầu, mỗi công việc, ngành nghề cụ thể sẽ
quy định rõ ở mỗi trình độ nhất định cần những kỹ năng nào để có thể đảm nhận
được công việc đó. Do khi tham gia các khóa học nghề, cũng như đào tạo tai
các trường cao đẳng, đại học sinh viên sẽ được được đào tạo một cách bài bản
các kỹ năng đó và khi ra trường sinh viên có thể bắt tay vào công việc luôn.
- Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho
các đơn vị tuyển dụng. Hiện nay đa số sinh viên ra trường đều rất khó có thể xin
đươck một công việc theo đúng những gì đã học mặc dù nhu cầu tuyển dụng
của các doanh nghiệp là rất cao do đó rất khó cho doanh nghiệp có thể tuyển
được số lượng lao động như mong muốn. Phần lớn là do những kỹ năng sinh
viên có được trong quá trình học ở nhà trườn là rất ít so với yêu cầu đòi hỏi của
doanh nghiệp. Song khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu thì số lượng lao động
mà thị trường cần đã được dự báo trước và chất lượng lao động đã được nâng
cao nên khả năng doanh nghiệp tuyển không đủ lượng cần là rất hạn chế.

12
- Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân
lực từ nước ngoài chảy vào, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước
của các đơn vị tuyển dụng trong nước. Do lao động trong nước không đáp ứng
được yêu cầu của các nhà tuyển dụng nên nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến
những lao động nước ngoài (thường thấy khi tuyển các vị trí cấp cao như giám
đốc, CEO…). Nhưng khi áp dụng đào tạo theo nhu cầu thì vấn đề này sẽ được
giải quyết do lao động của ta sẽ được đào tạo theo đúng nhưng gì doanh nghiệp
cần và được tiếp cận công nghệ mới một cách liên tục do đó sẽ nhanh chóng
nâng cao tay nghề của bản thân.
- Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người
lao động khi phải đào tạo lại.Khi đào tạo theo nhu cầu, người lao động đã được

diện rộng. Việc làm này sẽ gây lãng phí thời gian và tiền của của doanh nghiệp
và nhà trường.
4. Phân loại nhu cầu đào tạo
Hiện nay có 3 nhóm nhu cầu sau đây:
- Nhu cầu của nhà nước: là những đòi hỏi về nguồn nhân lực từ những
chiến lược phát triển của bộ máy nhà nước hay của những ngành nghề mới mà
Nhà nước định hướng phát triển trong tương lai đảm bảo cho sự phát triển lâu
dài của đất nước. Nhu cầu đào tạo này thường chọn mục tiêu đi trước, đón đầu
về khoa học, công nghệ, vượt trước nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp cũng như
nhu cầu của người học. Có thể thấy nhu cầu đào tạo này trong việc phát triển
nguồn nhân lực cho các ngành điện hạt nhân, công nghệ Nano, công nghệ sinh
học, cơ điện tử và một số ngành công nghệ quan trọng khác. Nhu cầu đào tạo
này có số lượng lớn, có căn cứ và cơ sở để dự đoán hàng năm. Những ngành
nghề đặc biệt về an ninh, quốc phòng và chế độ cử tuyển do nhà nước dự báo
nhu cầu.
- Nhu cầu của doanh nghiệp: là nhu cầu về số lượng và chất lượng, tay
nghề, trình độ chuyên môn, kỹ năng của người lao động. Nhu cầu này đòi hỏi
lao động sau khi được đào tạo có thể làm được việc ngay, phù hợp với yêu cầu
cụ thể của doanh nghiệp để giảm thiếu chi phí do phải đào tạo lại. Tuy nhiên
nhu cầu này chưa được tổng hợp, thiếu thông tin nhu cầu dự báo hàng năm. Đặc
biệt trong các doanh nghiệp ở các nước hiện nay đang phải nhập khẩu lao động

14
thì việc đào tạo theo nhu cầu của họ để xuất khẩu lao động là hoàn toàn cần
thiết.
- Nhu cầu của người học: là nhu cầu cá nhân của học sinh, sinh viên. Nhu
cầu này thường thay đổi theo nhu cầu của thị trường lao động rất khó xác định
nhưng phải được nghiên cứu và tôn trọng. Đó là nhu cầu của bản thân người
học để nâng cao trình độ, học để tìm việc làm, để làm một nghề có thể sống
được, học để tự tạo việc làm cho bản thân và cho người khác. Bên cạnh đó là

sinh, sinh viên nhanh chóng tiếp cận các kiến thức, công nghệ hiện đại như:
giảng dạy bằng máy chiếu, phương pháp trao đổi thông tin qua mạng …giúp
giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng và tạo cảm giác
thoải trong học tập. Đồng thời nhờ có internet giáo viên và học sinh có thể trao
đổi bài tập rất bất cứ khi nào mà không mất nhiều thời gian.
5.2. Những nhân tố tiêu cực
+ Tài chính Nhà nước cấp cho các trường và khoản thu của nhà trường
(học phí và các khoản thu khác) có tăng qua từng năm nhưng vẫn là quá ít so
với nhu cầu của nền giáo dục ngày càng phát triển. Trước năm 2007 ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục khoảng 15% đến 16 % tổng chi cho ngân sách nhà
nước, đến năm 2007 con số này là 20% và có thể tăng lên từ 21% đến 22% vào
những năm tiếp sau. Tuy nhiên mức đầu tư này cộng thêm các khoản của nhà
trường từ học phí còn là rất nhỏ so với chi phí cần thiết đầu tư trang thiết bị,
máy móc hiện đại cho các trường. Mặt khác tổng chi ngân sách của Nhà nước
tính trên một mặt bằng GDP thấp như nước ta nên 20% là một con số nhỏ trong
khi hầu hết các máy móc thiệt bị tối tân đều phải nhập từ nước ngoài về do đó
khoản chi phí này chỉ đủ cho một số trước lớn mua từ 1 đến 2 loại máy móc.
+ Cơ sở vật chất cho giảng dạy còn nhiều hạn chế nhất là các ngành thuộc
khối kỹ thuật do đầu tư vào trang thiết bị quá tốn kém. Hệ thống giảng đường,
phòng thí nghiệm và trang thiết bị phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của
các trường còn thiếu, nghèo nàn và lạc hậu. Hệ thống thư viện nhà trường nhỏ

16
bé, không cung cấp đủ thông tin, sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo cho nhu
cầu ngày càng cao của giảng viên, SV.
+ Nội dung giảng dạy tại trường học còn lạc hậu so với thực tế công việc.
Hầu hết các giáo trình giảng dạy cho sinh viên hiện nay đều là giáo trình cũ của
nhiều năm trước, tuy có sửa đổi, bổ sung xong vẫn chủ là chắp vá chứ ít có bộ
giáo trình hoàn chỉnh theo đúng nội dung của công việc hiện tại. Hoặc nhiều
giáo trình được dịch ra từ sách nước ngoài nên có đôi chỗ không hiểu chính xác

qua GD – ĐT với chiến lược CNH có tính bổ xung và phù hợp khá cao. Hai loại
chính sách này không thể thành công được nếu như chính sách phát triển NNL
thông qua GD – ĐT không được hoạch định nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể
đặt ra cho mỗi giai đoạn của CNH. Cụ thể là vào thời kỳ chuẩn bị cất cánh công
nghiệp, các nền kinh tế Đông Á (ngay cả Nhật Bản) thường bị lạc vào tụt hậu xa
so với các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ. Các nền nước ở Đông Á có nguồn nhân
lực dồi dào và rẻ mạt song lại rất thiếu các nguồn lực để có thể cùng mọt lúc
đáp ứng được rất nhiều nhu cầu cấp bách. Để có thể sớm rút ngắn khoảng cách
đó và đuổi kịp các nước phát triển, các nước Đông Á không có cách nào khác
để tiến hành thành công CNH là phải tiến hành tiếp thu công nghiệp nước
ngoài. Muồn làm được điều này, các nước này cần phải nhanh chóng nâng cao
trình độ dân chúng và tạo ra được một đội ngũ lao động có trình độ đồng đều và
phù hợp để có thể tiếp thu và cải tiến được các công nghệ nhập khẩu. Trong tình
thế đó do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục tiểu học, nên các nền
kinh tế này đã ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục tiểu học. Nhiều nền kinh tế
trong khu vực đã giành một nửa kinh phí giáo dục cho giáo dục tiểu học. Nhờ
đó, hầu hết các nền kinh tế này đã sớm thực hiện thành công quá trình phổ cập
giáo dục tiểu học, tạo nền tảng quan trọng cho việc chuyển dịch trôi chảy lao
động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng như cho việc xây dựng và
phát triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động.
Đó thực sự là một chuyển đổi thành công từ sự gia tăng trình độ giáo dục sang
sự gia tăng năng xuất lao động xã hội và sự gia tăng mức độ CNH của nền kinh
tế.

18
Vào thời kỳ chuyển dịch cơ cầu công nghiệp từ các hoạt động giá trị gia
tăng thấp lên các hoạt động có giá trị gia tăng cao, nhu cầu nhân lực lúc này
không chỉ là lao động giản đơn tốt nghiệp tiểu học như giai đoạn trước nữa mà
đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn. Do đó ngay sau khi đạt được phổ cập
giáo dục tiểu học, các nền kinh tế Đông Á đã chuyển sang mở rộng giáo dục

ở các cấp trung học, lẫn sau trung học. Trong các phương thức đào tạo nghề ở
các nước Đông Á thì phương thức nổi trội nhất là đào tạo nghề ngay tại nơi làm
việc (phát triển nhất ở Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc). Phương thức đào tạo
này đảm bảo được nguyên tắc gắn học với hành và hầu như không có sự bất cập
giữa cung và cầu lao động được đào tạo vì các công ty thực hiện đào tạo chủ
yếu cho và từ nhu cầu của chính mình.
Gần đây, Nhật Bản đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra
những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học
và công nghệ của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Những hướng
cải cách chủ yếu là loại bỏ dần tính thống nhất và bình đẳng thái quá trong giáo
dục; giảm thiểu kiến thức, nhất là phần lý thuyết suông trong các trường phổ
thông và tăng thêm phần thực hành; chuyển cách dạy và học từ chỗ nặng về
"thày dạy, trò ghi nhớ một cách máy móc" sang chỗ "thày chủ yếu khơi gợi vấn
đề, trò chủ động tham gia thảo luận"; giảm dần sự can thiệp quá mức của Nhà
nước, đề cao tính chủ động và tự quản của các địa phương, các nhà trường trong
các vấn đề giáo dục; và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, linh hoạt hoá các
chương trình giảng dạy để tạo cho mọi người có thể chủ động tham gia vào quá
trình học tập bất cứ lúc nào trong đời.
Để khắc phục sự chậm trễ của mình trong công nghệ thông tin và cũng để
nhanh chóng phổ cập tin học đến mọi người dân, tháng 12 năm 1999 Chính phủ
Nhật Bản đã đưa ra Dự án thiên niên kỷ "Millennium Project" trong đó có mục
"Digitalization of Education" (số hoá giáo dục) nhằm phổ cập máy tính và
Internet tại tất cả các cấp học phổ thông, kể cả các trường dành cho người
khuyết tật vào năm tài chính 2001, và chuẩn bị môi trường và điều kiện để có

20
thể sử dụng được máy tính vào việc dạy và học ở tất cả các trường công lập vào
năm 2005.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng
Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào

dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh
nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại
Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo
nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội
tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong
vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu
"khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với
một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất
cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc
độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu.
6.3.Trung Quốc
Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung
Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược
quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã
tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng
giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều
biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và
khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung
Quốc còn đặc biệt chú ý đến việc phát triển giáo dục đại học và coi đó là một
biện pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể,
Trung Quốc đã đưa ra Dự án 21 nhằm nâng cấp 100 trường đại học của mình
trong một số lĩnh vực trọng điểm như cơ khí, phát triển nông thôn và công nghệ
thông tin lên ngang tầm thế giới. Đồng thời, ngoài việc nâng cao chất lượng đào

22
tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách khuyến khích thanh niên đi du
học và nghiên cứu ở nước ngoài để sau đó trở về xây dựng đất nước.
Như vậy các nước Đông Á, Châu Âu và Trung Quốc ngay từ những ngày
đầu tiến hành CNH nền kinh tế đều đã coi con người là nhân tố quan trọng và
cần được đào tạo không chỉ về số lượng mà cả chất lượng theo nhu cầu thị

đơn vị trực tiếp quản lý chuyên gia giáo dục làm việc ở nước ngoài. Trung tâm
hiện đang thực hiện tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ và đưa chuyên gia đi làm
việc tại các nước như Angola, Algierie, Công Gô, Madagascar, Môdămbique,
Nhật bản, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nga, Lào, Campuchia, Malaysia và một số nước
khác trên thế giới.
2. Chức năng, nhiệm vụ vủa trung tâm
2.1. Chức năng
Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài là tổ chức kinh
tế trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, có chức năng làm dịch vụ đưa chuyên gia
và người lao động (bao gồm: chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và các
dạng lao động khác) đi làm việc ở nước ngoài theo quy định, chế độ chính sách
của Nhà nước và của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

24
2.2. Nhiệm vụ
+ 02 nhiệm vụ nêu trong quyết định số 2447/QĐ ngày 19/9/1991:
- Tiến hành tổ chức đưa người Việt Nam đi học tập, thực hành nâng cao
trình độ theo nguyện vọng cá nhân và khả năng tiếp nhận của các cơ sở ngoài
nước, trên cơ sở chủ trương của Bộ và quy định của Nhà nước;
- Làm môi giới, giới thiệu, lo thủ tục ở trong và ngoài nước cho các đối
tượng trên.
+ 08 nhiệm vụ trong Quyết định số 1556/TCCB ngày 3/8/1992:
- Lập kế hoạch hợp tác chuyên gia và lao động kỹ thuật khác;
- Khảo sát tiếp cận thị trường lao động, ký kết các hợp đồng về: Hợp tác
chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và lao động có nghề;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay
nghề, trình độ ngoại ngữ để chuẩn bị đội ngũ chuyên gia giỏi, lao động có kỹ
thuật cao, biết ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động hoặc bên sử dụng
lao động;
- Tổ chức tuyển chọn chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và người


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status