Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam - Pdf 28

Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là
xu thế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, chia sẻ rủi ro, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận
chuyển hàng hoá, tránh các rào cản thuế quan và phi thuế quan, đồng thời
tăng cường khoa học kỹ thuật, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua nhà nước Việt Nam
đã lần lượt ban hành một loạt văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động
ĐTTTRNN và đã thu lại được những thành quả nhất định. Tuy nhiên có thể
thấy từ trước đến nay, chính sách đầu tư của nhà nước ta luôn chỉ coi trọng
và không ngừng khuyến khích hoạt động ĐTTTNN vào Việt Nam. Vì vậy,
khi nói đến ĐTTTNN, chúng ta thường chỉ biết đến hoạt động của các công
ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chứ dường như không nghĩ đến việc các
công ty Việt Nam cũng có thể ĐTRNN. Tại sao lại không, khi mà hoạt động
ĐTTTRNN đã và đang diễn ra mạnh mẽ không những chỉ ở các nước phát
triển mà cả ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc
năm 2005 thì xu hướng ĐTRNN của các nước đang phát triển đang gia tăng
nhanh chóng trong những năm gần đây. Thực ra hoạt động ĐTRNN của các
công ty ở các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore đã diễn ra từ những thập
kỷ 70 hay 80. Khi điều kiện kinh tế của các quốc gia đó gần như điều kiện
của Việt Nam hiện nay. Bằng cách ĐTTTRNN mà các công ty như Daewoo,
Huyndai, Samsung… từ các công ty nhỏ đã trở thành các tập đoàn đa quốc
gia hùng mạnh trên thế giới. Và hiện nay các công ty ở Trung Quốc đang nổi
lên bởi các hoạt động ĐTTTRNN khá táo bạo.
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập
WTO, trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Như vậy, trong thời
gian tới cơ hội để tham gia vào thị trường thế giới của các doanh nghiệp Việt
Nam là rất lớn. Điều đó đồng nghĩa với việc các DN Việt Nam sẽ thúc đẩy

vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu
tư được biểu hiện rất đa dạng. Nếu căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu
tư đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: ĐTTT và ĐTGT. Trong đó
ĐTTT là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều
hành quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các hình
thức đầu tư này là các nhà đầu tư thường kiểm soát hoạt động và chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có vốn đầu tư của mình.
Trong hoạt động ĐTTT không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu tư (2005) của Việt
Nam, ĐTTT là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư (Khoản 2, điều 3). ĐTTT có thể là ĐTTT trong
nước hoặc ĐTTTNN. ĐTTT trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các
tổ chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật
quy định. FDI là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc
trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích
kinh doanh thu lợi nhuận.
Hiện nay, hoạt động FDI đang diễn ra ở hầu hết các nước trên thế
giới. Mặc dù xu hướng phổ biến là các nước không có sự phân biệt trong cơ
chế điều chỉnh pháp luật giữa ĐTTT trong nước và FDI, khái niệm FDI vẫn
được định nghĩa trong luật pháp của nhiều nước, như luật khuyến khích đầu
tư của Thái Lan, luật khuyến khích và bảo hộ ĐTNN của Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào, luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành của Hàn
Quốc…
Theo quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên
giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ
Khóa luận tốt nghiệp
3
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp ĐTTT trong một quốc gia khác.
Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công

Khóa luận tốt nghiệp
4
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
nước ngoài ở Việt Nam năm 1987 cũng như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996 như sau: “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập
doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”. Như
vậy, khái niệm FDI được hiểu là ĐTTT từ nước ngoài vào Việt Nam, còn
ĐTTT từ Việt Nam ra nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của các
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghĩa là trong một thời gian dài chúng
ta không hề có một quy định pháp luật nào điều chỉnh về ĐTTTRNN. Điều
này xuất phát từ thực tiễn đất nước còn nhiều khó khăn, vốn tích luỹ thấp,
trình độ quản lý, trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế cộng thêm cả cách
nghĩ lạc hậu “đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn” đã không cho
phép các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài [13]. Hiện nay, Việt Nam đã có
sự thay đổi về mọi mặt, có vốn dư thừa tương đối, có khả năng tài chính,
kinh nghiệm quản lý và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Quan điểm mới
khẳng định rằng ĐTRNN là cần thiết, tạo điều kiện nối dài cánh tay của
doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường thế giới [10]. Vì vậy, đến NĐ 22 năm
1999 thì ĐTTTRNN mới chính thức được ghi nhận, theo đó khái niệm
ĐTTTRNN được định nghĩa như sau: “ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam
là việc DN Việt Nam đưa vốn bằng tiền và tài sản khác ra nước ngoài để
ĐTTTRNN theo quy định của nghị định này” (Khoản 1, điều 1).
Hiện nay, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN đã
chính thức được pháp điển hoá vào Luật đầu tư (2005). Khoản 14 Điều 3
Luật đầu tư định nghĩa: “ĐTRNN là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và
các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động
đầu tư”. Sau đó, NĐ 78 năm 2006 được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành
Luật đầu tư (2005) về ĐTTTRNN, theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định

thuần tuý. Mục đích ODA có thể là: a) tính đoàn kết quốc tế: như quyết định
của Liên hiệp quốc là các nước giàu phải dành 0,7% GDP cho viện trợ cho
các nước nghèo; b) lợi ích thương mại: các nước tài trợ muốn dùng viện trợ
như một biện pháp để tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát triển
và có thể áp dụng các ràng buộc thương mại đối với phần viện trợ của họ; c)
lợi ích chính trị: các nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các nước
tiếp nhận viện trợ thay đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như:
thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham
nhũng, các yêu cầu liên quan đến nhân quyền…[7].
Khóa luận tốt nghiệp
6
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
d. Về tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Nếu như ở ĐTGT nước ngoài, nhà ĐTNN góp vốn bằng cách mua cổ
phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nước sở tại mà không trực tiếp nắm
quyền quản lý doanh nghiệp thì ở ĐTTTRNN, nhà đầu tư lại đóng góp một
số vốn đủ lớn để có quyền tham gia trực tiếp vào việc quản lý đối tượng đầu
tư. Nhà đầu tư bỏ vốn tự quyết định đầu tư vào lĩnh vực gì và chịu trách
nhiệm về quyết định đó. Để ĐTTTRNN, nhà đầu tư phải điều tra nắm bắt thị
trường, tìm hiểu tình hình thế giới liên quan đến lĩnh vực đầu tư, đưa ra
quyết định đầu tư, xây dựng dự án đầu tư, thực hiện dự án và hưởng thành
quả của nó. ĐTTTRNN bảo đảm cho nhà đầu tư kiểm soát và điều hành quá
trình vận động vốn đầu tư. Do chủ thể đầu tư bỏ vốn hoàn toàn hoặc có số
vốn lớn trong phần vốn góp, do đó nhà đầu tư hoàn toàn có thể kiểm soát
hoạt động sản xuất hoặc chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhà đầu tư
thường có kiến thức và kinh nghiệm quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài,
hiểu biết về thị trường thế giới chính về thế mà có khả năng bảo đảm hiệu
quả của doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
e. Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư.
Vì là quan hệ có mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận nên quan

biến vì thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được
nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Vì
vậy các quốc gia thiếu tài nguyên thiên nhiên như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Quốc coi đây là một chính sách nhằm cân bằng sự thiếu hụt các
nguồn tài nguyên trong nước [9].
- Thứ ba: ĐTTTRNN giúp cho các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Đối với sự ra đời của một sản phẩm, chiếm lĩnh được thị
trường là yếu tố sống còn. Khi hầu hết các quốc gia đều gia nhập vào một thị
trường chung - Thị trường thế giới – thì vấn đề thị trường cho sản phẩm lại
càng trở nên bức thiết. Doanh nghiệp nào có chiến lược đưa được sản phẩm
của mình ra nước ngoài trước, chiếm lĩnh được thị trường trước thì doanh
nghiệp đó sẽ thành công.
- Thứ tư: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư tránh được hàng rào
thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư. Trong
giai đoạn đầu của nền kinh tế toàn cầu, vẫn còn rất nhiều hàng rào thuế quan
và phi thuế quan được dựng lên trên cơ sở nhiều lý do khác nhau.
ĐTTTRNN sẽ giúp các quốc gia đầu tư mở rộng thị trường cho hàng hoá
của mình mà không vướng phải bất cứ sự cản trở nào. Điều này cũng giúp
cho hàng hoá của các quốc gia đầu tư có sức cạnh tranh nhờ giá cả hợp lý.
Khóa luận tốt nghiệp
8
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
- Thứ năm: ĐTTTRNN sẽ giúp cho không chỉ các doanh nghiệp của
các nước đầu tư mà còn của nước tiếp nhận tự hoàn thiện mình cả về mặt cơ
cấu sản phẩm, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Đối với các nước đầu tư, ở
môi trường đầu tư mới, doanh nghiệp muốn đứng vững phải tìm cách thích
ứng với thị trường, đáp ứng những đòi hỏi của thị trường mới có thể tồn tại.
Ngoài ra ĐTTTRNN còn cho phép các công ty nước ngoài kéo dài
chu kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu
sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.

trình độ kỹ thuật cao cho đất nước, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao
mức thu nhập cho người lao động.
- Thứ tư: Góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong thời đại ngày nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều
có nhu cầu mở rộng thị trường cả trong nước và nước ngoài. Đa số các dự án
ĐTTTRNN đều có phản ánh bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều
đang trở thành khá phổ biến ở các nước đang phát triển hiện nay [20].
- Thứ năm: Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
ĐTTTRNN đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước
thông qua việc nộp thuế, phí tiền thuê đất… của các đơn vị đầu tư nước
ngoài. Đồng thời tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang
phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát
triển thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh
nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược mở
cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố bên ngoài biến nó trở thành
nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao.
b. Vai trò, ý nghĩa riêng đối với Việt Nam.
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp, các doanh
nghiệp Việt Nam gần đây mới mạnh dạn tiến hành ĐTTTRNN. Mặc dù là
một lĩnh vực đầu tư mới nhưng trong một thời gian ngắn đã thu lại được
những kết quả rất khả quan. Bên cạnh những vai trò không thể phủ nhận của
hoạt động ĐTTTRNN đối với việc phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế
giới, đối với Việt Nam, hoạt động này còn vô cùng ý nghĩa, đặc biệt là trong
bối cảnh hội nhập hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp
10
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp các nhà đầu tư ở Việt Nam khai thác được
lợi thế so sánh của nước tiếp nhận đầu tư, qua đó tận dụng được chi phí sản

11
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Hoạt động ĐTTTRNN tại Việt Nam đã bắt đầu được thực hiện từ
năm 1989. Tuy nhiên cho đến tận năm 1999, văn bản pháp lý đầu tiên quy
định về ĐTRNN của các DN Việt Nam mới được ban hành, đó là NĐ 22
năm 1999. Đây có thể coi là một sự bất cập của hệ thống quy phạm pháp
luật khi không thể theo kịp để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
đời sống dẫn đến trong một thời gian dài, các nhà đầu tư tiên phong gặp vô
vàn khó khăn, không chỉ ở việc thiếu thông tin thị trường, thiếu vốn, thiếu
khoa học công nghệ, sự hỗ trợ của nhà nước mà còn thiếu cả cơ sở pháp lý
điều chỉnh quan hệ đầu tư trong lĩnh vực này. Theo một chuyên gia của Bộ
KH - ĐT, vấn đề đẩy mạnh ĐTRNN trước kia có hai quan điểm: có quan
điểm cho rằng chưa đặt vấn đề khuyến khích ĐTRNN vì cho rằng ĐTRNN
là chảy máu ngoại tệ. Nước ta đang cần khuyến khích đầu tư trong nước để
phát triển chưa đến lúc ĐTRNN. Tuy nhiên lại có quan điểm khác cho rằng
cần khuyến khích ĐTRNN để nối dài cánh tay của doanh nghiệp ra ngoài cả
về thị trường [17]. Hiện nay, quan điểm thứ hai đang trở nên phù hợp với
thực tiễn và nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Sau một thời gian dài đổi
mới và phát triển, DN Việt Nam cũng đã có tích luỹ và có thể đầu tư ra nước
ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình. Nhờ vậy mà các quy định về
ĐTRNN ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và rõ ràng hơn. Minh chứng
cho điều này là việc Luật đầu tư đã pháp điển hoá hoạt động ĐTRNN vào
luật, sau đó Chính phủ ban hành NĐ 78 năm 2006 hướng dẫn về vấn đề này.
Ở mức độ khái quát có thể hiểu, pháp luật về ĐTTTRNN là tổng thể
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện và quản lý
hoạt động ĐTTTRNN.
Khung pháp luật về ĐTTTRNN của Việt Nam được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước trước hết là Hiến pháp, rồi
đến Luật đầu tư quy định cụ thể về hoạt động này, tiếp đó là các đạo luật

của mình. Điều kiện để ĐTRNN thể hiện thái độ của nhà nước đối với hoạt
động này. Điều kiện chặt chẽ sẽ dễ dàng trong quản lý nhưng lại khó khăn
cho các nhà đầu tư. Trong thời đại ngày nay, xu hướng chung của các nước
là thông thoáng, tạo thuận lợi song cũng phải đảm bảo thực hiện tốt chức
năng quản lý của nhà nước.
c. Thủ tục ĐTTTRNN: là quá trình đăng ký, thẩm định cấp giấy chứng
nhận ĐTTTRNN. Để có thể tiến hành hoạt động ĐTTTRNN trước hết nhà
đầu tư phải được cơ quan có thẩm quyền trong nước cho phép thông qua
giấy chứng nhận đầu tư. Tổ chức, cá nhân muốn được cấp giấy chứng nhận
đầu tư phải chuẩn bị hồ sơ dự án đầu tư gửi tới cơ quan có thẩm quyền theo
Khóa luận tốt nghiệp
13
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
luật định. Trong thời hạn nhất định kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan có
thẩm quyền sẽ quyết định cấp giấy chứng nhận đầu tư hay không. Quy định
về thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng tới sự vận động, phát triển của quá
trình ĐTTTRNN. Thủ tục thông thoáng sẽ tạo tâm lý thoải mái cho các nhà
đầu tư. Ngược lại thủ tục rườm rà sẽ gây tư tưởng ái ngại làm nản lòng các
nhà đầu tư. Vì vậy cần có một thủ tục đầu tư đơn giản tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
d. Hình thức ĐTTTRNN: khá đa dạng. Pháp luật của nước tiếp nhận đầu
tư sẽ quy định cụ thể về hình thức đầu tư và nội dung hình thức đó. Và về
nguyên tắc nhà đầu tư có thể được chấp nhận lựa chọn đầu tư theo hình thức
ĐTTT như: liên doanh, độc doanh, hợp doanh, sáp nhập, mua lại…
e. Lĩnh vực ĐTTTRNN: Phụ thuộc vào pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,
sẽ quy định lĩnh vực được phép đầu tư và những lĩnh vực bị cấm. Tuy nhiên,
pháp luật của nước đầu tư cũng có quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư
và các lĩnh vực bị cấm ĐTTTRNN. Quy định này mang ý nghĩa chính trị xã
hội, đảm bảo ổn định chính trị và lợi ích quốc gia.
f. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư ĐTTTRNN: Pháp luật về

năng làm giàu cho bản thân, góp phần tạo uy tín cho Việt Nam trên trường
Quốc tế.
Như vậy, nhờ sự thừa nhận chính thức của pháp luật mà các quan hệ
ĐTTTRNN phát sinh và cũng chính các quy định về hình thức đầu tư, lĩnh
vực đầu tư, chủ thể đầu tư, biện pháp bảo đảm, biện pháp khuyến khích, biện
pháp hạn chế… mà pháp luật ĐTTTRNN định hướng được sự phát triển của
các quan hệ ĐTTTRNN.
b. Pháp luật ĐTTTRNN là công cụ quản lý của nhà nước về ĐTTTRNN.
Từ phương diện quản lý nhà nước, pháp luật về ĐTTTRNN được xem
như một công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước trong việc quản lý các hoạt
động ĐTRNN nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của
quá trình luân chuyển vốn ra khỏi biên giới quốc gia. Bởi quan hệ về
ĐTTTRNN là quan hệ mang bản chất kinh tế thị trường nên không thể tránh
khỏi những khuyết tật cố hữu của bất cứ hoạt động thị trường nào như: tính
tự phát, chạy theo lợi nhuận tối đa, không chú ý tới lợi ích, không chú ý giữ
gìn bí mật an ninh quốc phòng, lịch sử, thuần phong mỹ tục… Vì vậy, pháp
Khóa luận tốt nghiệp
15
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
luật về ĐTTTRNN đóng vai trò thực sự là một công cụ quản lý hữu hiệu và
khoa học của nhà nước nhằm định hướng, giới hạn “hành lang” cho các hoạt
động ĐTTTRNN để phát huy mặt tích cực của hoạt động này; không những
vậy trên thực tế, pháp luật vừa là công cụ quyền lực, vừa có khả năng chống
lại sự lạm quyền, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho các nhà đầu tư của cán bộ
công chức biến chất trong bộ máy chính quyền.
c. Pháp luật ĐTTTRNN góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống
pháp luật về đầu tư.
Nếu ĐTTTRNN là hoạt động kinh tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển
ngoại lực của nền kinh tế đất nước thì pháp luật về ĐTTTRNN là một bộ
phận của pháp luật về đầu tư cũng có vai trò tác động làm phát sinh nhu cầu

hàng hoá lớn nhất thế giới trong năm 2008 này [16]. Riêng trong lĩnh vực
ĐTTTRNN, ngay từ rất sớm, Chính phủ Trung Quốc đã có cái nhìn đầy
nghiêm túc đối với hoạt động này, khi chính thức phê chuẩn “Công ước bảo
đảm cơ cấu đầu tư nhiều bên” từ năm 1988. Tiếp đó ngày 1/7/1992 Trung
Quốc phê chuẩn “Công ước giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia”
(Công ước Oashingtơn). Đây chính là cơ sở ban đầu cho Trung Quốc trong
quá trình xây dựng, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTTTRNN của
các doanh nghiệp [11].
Quốc vụ viện - cơ quan quyền lực cao nhất của Trung Quốc đã ban
hành quyết định về việc cải cách thể chế đầu tư, trong đó quy định một cách
chung nhất thẩm quyền thẩm tra, phê chuẩn đối với các hạng mục ĐTRNN
của các cơ quan: Quốc vụ viện, Uỷ Ban cải cách và phát triển, Bộ thương
mại và chính quyền địa phương. Việc phân cấp quản lý tạo điều kiện cho
việc quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp.
Uỷ Ban cải cách và phát triển là cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện, với
chức năng quản lý hoạt động ĐTRNN đã ban hành một số văn bản điều
chỉnh hoạt động ĐTTTRNN như: “Biện pháp quản lý tạm thời về việc thẩm
tra phê chuẩn các công trình ĐTNN”; “Thông tư của ngân hàng xuất nhập
khẩu Trung Quốc, Uỷ Ban cải cách và phát triển nhà nước về chính sách
khuyến khích các khoản vay ưu đãi đối với các công trình ĐTRNN trọng
điểm”.
Ngoài ra, Cục quản lý ngoại hối cũng đã ban hành một số văn bản
pháp quy như: “biện pháp quản lý ngoại hối trong ĐTRNN”; “các nguyên
tắc thực thi biện pháp quản lý ngoại hối trong ĐTRNN”…
Khóa luận tốt nghiệp
17
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với hoạt động
của các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngoại thương nói chung và ĐTTTNN
nói riêng, Bộ thương mại Trung Quốc trong thời gian qua đã ban hành và

18
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
công ty vay vốn của nhà nước, thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành
cổ phiếu ra công chúng. Không những vậy tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đều được tài trợ một phần vốn thông qua Quỹ hỗ trợ ĐTRNN. Với các chính
sách trên cho thấy cơ chế ĐTTTRNN trong quy định của pháp luật Singapore
là hết sức thông thoáng, nhà nước tạo mọi điều kiện, đặc biệt về tài chính,
khuyến khích doanh nghiệp dưới mọi hình thức với đủ loại hình tiến hành
ĐTTTRNN. Chính vì vậy mà số lượng doanh nghiệp ĐTRNN không ngừng
tăng lên một cách nhanh chóng và thu đươc lợi nhuận kinh doanh đáng kể cho
đất nước [9].
1.2.4 Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về
ĐTTTRNN ở Việt Nam.
Theo thống kê của cục đầu tư nước ngoài, Bộ KH - ĐT, dự án đầu tiên
của các DN Việt Nam ĐTRNN là vào năm 1989 với số vốn 563.380 triệu đô
la Mỹ nhưng đáng tiếc dự án này đã không được thực hiện. Lý do chủ yếu dễ
hiểu là không có căn cứ pháp lý. Từ thời điểm năm 1989 - 1998, mỗi năm có
vài ba dự án, năm nhiều nhất có 5 dự án (1993) ĐTRNN nhưng vốn thực hiện
còn thấp, có năm không giải ngân được đồng nào. Kể từ năm 1999, sau khi
Chính phủ ban hành NĐ 22 năm 1999 về một số biện pháp khuyến khích
ĐTRNN, thì ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có sự tăng
trưởng ổn định. Năm 1999 có 10 dự án, năm 2000 tăng lên 15 dự án và tăng
trưởng đều đặn về số lượng dự án kể từ đó đến nay [16].
Như vậy trong một thời gian dài hoạt động ĐTRNN được các chủ thể
tiến hành một cách nhỏ lẻ, manh mún, rời rạc và hết sức bấp bênh. Khi mà cơ
sở pháp lý của nó chưa được quy định trong luật, doanh nghiệp mạnh dạn tiến
hành đầu tư tuy nhiên rất mất phương hương do không hề có một sự hỗ trợ
nào từ phía nhà nước. Vì vậy mà NĐ 22 năm 1999 ra đời mặc dù hơi chậm trễ
nhưng rất đáng khích lệ. Tình trạng này bắt nguồn từ xuất phát điểm của Việt
Nam thấp, rất cần vốn đầu tư. Vốn trong nước chưa đủ nên rất dễ hiểu, chúng

USD [17]. Trong 16 năm qua, Việt Nam đã có sự gia tăng cả về số lượng dự
án và số vốn đăng ký, đặc biệt là sau khi NĐ 22 năm 1999 được ban hành. Vì
thế có thể nói NĐ 22 năm 1999 và các văn bản hướng dẫn đã đánh dấu mốc
quan trọng trong việc hình thành cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN của
DN Việt Nam, thổi một luồng sinh khí mới vào hoạt động đó, tạo điều kiện
cho việc ra đời nhiều dự án ĐTTTRNN của DN Việt Nam hoạt động đạt hiệu
quả nhất định. Đồng thời là minh chứng cho sự trưởng thành về nhiều mặt của
DN Việt Nam từng bước hội nhập đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Tuy
nhiên, sau 6 năm thực hiện, các nội dung pháp lý được ghi nhận tại các văn
bản pháp luật đó đã bộc lộ nhiều bất cập, có những điểm không phù hợp với
Khóa luận tốt nghiệp
20
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
tình hình mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế của đất nước như
[14]:
♦ Nhiều quy định trong NĐ 22 năm 1999 còn thiếu cụ thể, đồng bộ
và nhất quán; nhiều điều khoản đến nay không còn phù hợp; không bao quát
hết được sự đa dạng của các hình thức ĐTRNN. Nhiều quy định có tính chất
ràng buộc một cách ngặt nghèo, như: tư nhân ĐTRNN từ 1 triệu USD trở lên
phải có ý kiến của Thủ tướng chính phủ.
♦ Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhưng nhìn chung
vẫn còn quá phức tạp, rườm rà; thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư chưa rõ
ràng; không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động kinh
doanh của DN. Một số dự án có thời gian cấp phép kéo dài là do quy trình
cũ phải qua thẩm định, lấy ý kiến nhiều cơ quan theo cơ chế chịu trách
nhiệm tập thể. Nhiều quy định về mặt pháp lý còn quá chặt, đặc biệt quy
định của NĐ 22 năm 1999 về việc chuyển tiền ra nước ngoài còn nhiều khó
khăn.
♦ Các văn bản pháp luật có liên quan đến ĐTRNN còn nhiều hạn
chế, chưa lường hết được những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành,

tổng vốn đăng ký 391,2 triệu USD, tại 18 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới [19].
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
Khóa luận tốt nghiệp
22
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM.
2.1 Về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo NĐ 22 năm 1999 và Thông tư số 05/ 2001/TT - BKH ngày
30/08/2001 của Bộ KH - ĐT về hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của DN Việt
Nam thì chủ thể của hoạt động ĐTRNN chỉ là các DN Việt Nam, cụ thể bao
gồm:
- Một là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước ;
- Hai là, hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Ba là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty;
- Bốn là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân;
(Các doanh nghiệp nêu tại khoản này sau đây gọi tắt là doanh nghiệp
Việt Nam)
Tại thời điểm NĐ 22 năm 1999 được ban hành, chính sách của Việt
Nam là thu hút vốn ĐTNN với hàng loạt chính sách ưu đãi bên cạnh quan
điểm phi kinh tế: đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn, làm giảm
đầu tư trong nước. Vì vậy, quy định của pháp luật về đầu tư đã theo hướng
thắt chặt quy chế ĐTRNN.
Việc chỉ cho phép các nhà đầu tư là DN Việt Nam (không bao gồm
doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh) được tham gia vào hoạt động kinh doanh mới mẻ này không những
hạn chế một số lượng lớn các nhà đầu tư muốn được ĐTRNN mà còn tạo ra
sự phân biệt, đối xử không bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các loại hình

chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp;
- Năm là, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật
Hợp tác xã;
- Sáu là, cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các
cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
- Bảy là, hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam;
Quy định mới này đã củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy
mọi tiềm năng kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể kinh doanh, tạo ra
sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
2.2 Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Khóa luận tốt nghiệp
24
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Điều kiện ĐTTTRNN chính là thước đo cho chính sách khuyến khích
ĐTTTRNN, cũng đồng thời phản ánh thái độ của nhà nước đối với hoạt
động này. Tại NĐ 22 năm 1999 thái độ của nhà nước thể hiện rõ thông qua
các điều kiện đối với nhà đầu tư để được ĐTRNN như sau:
- Một là, dự án ĐTRNN có tính khả thi;
- Hai là, có năng lực tài chính, đáp ứng yêu cầu ĐTRNN;
- Ba là, thực hiện đầu đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh các quy định trên chưa tạo điều kiện cho nhà
ĐTRNN, vì pháp luật không hề giải thích rõ các tiêu chí của một dự án
ĐTTTRNN được coi là có tính khả thi. Nên việc xem xét điều kiện này là
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền, rất
dễ dẫn đến tiêu cực. Như vậy với quy định này nhà nước đã can thiệp quá
sâu vào hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, tạo cơ hội cho một bộ phận cán bộ
“biến chất” có điều kiện gây phiền phức cho nhà đầu tư. Nhà nước cần cho
nhà đầu tư tự quyết định, tăng tính tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Do
đó việc đặt ra điều kiện về “tính khả thi” là hoàn toàn không cần thiết.
DN Việt Nam được tiến hành ĐTTTRNN không chỉ đáp ứng điều


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status