Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Đông Á - Chi nhánh Hà Nội - Pdf 29

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển và cải cách kinh tế, cũng như các nền
kinh tế chuyển đổi khác, Việt Nam hình thành hệ thống các doanh nghiệp và
ngân hàng thương mại. Đây là hai trụ cột của nền kinh tế và giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Đối với doanh nghiệp, trong điều kiện một thị
trường tài chính còn chưa phát triển thì tín dụng ngân hàng vẫn là kênh huy
động vốn truyền thống và chủ yếu. Về phần mình, các NHTM đang đứng
trước một thị trường rộng lớn là các doanh nghiệp với khoảng hơn 300000
doanh nghiệp thuộc đủ các thành phần kinh tế. Có thể thấy rằng, sau hơn 20
năm đổi mới, NHTM và doanh nghiệp đã xây dựng được mối quan hệ tương
hỗ, dìu dắt nhau cùng vượt qua thời kỳ khó khăn để rồi lớn mạnh và phát triển
như ngày hôm nay. Tuy nhiên, đứng trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và
yêu cầu của sự phát triển, quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với NHTM
không chỉ có thuận lợi và tốt đẹp, mà nó còn chứa đựng rất nhiều vấn đề cần
giải quyết nếu muốn quan hệ này tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Vấn
đề tác giả đang muốn đề cập ở đây chính là chất lượng của các khoản tín
dụng, cụ thể là các khoản cho vay doanh nghiệp của NHTM. Thực tế cho
thấy, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng theo báo cáo thường niên của
NHNN năm 2007 là 2.85%, con số tuyệt đối là hơn 12000 tỷ đồng. Tuy
nhiên, chỉ cần tính toán sơ bộ với 5000 tỷ đồng nợ đọng của các doanh nghiệp
mía đường, hàng nghìn tỷ đồng thua lỗ của các công ty cà phê, và khoảng hơn
10000 tỷ nợ đọng tại các công trình xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp
xây lắp. Mới sơ sơ như vậy nhưng đã vượt xa con số báo cáo của NHNN, cho
thấy đây đang là vấn đề cần được NHTM và cả các doanh nghiệp giải quyết,
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
làm sao để hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM thật sự mang lại hiệu
quả, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhưng cũng an toàn cho các NHTM.
Chính vì tính cấp thiết của vấn đề như vậy, nên trong quá trình thực tập
tại ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội, tác giả chọn đề tài: “Nâng cao

Hoạt động này đã biến các nhà buôn từ kẻ cho vay nặng lãi thành nhà buôn
tiền - Ngân hàng. Về sau, do có sự cạnh tranh giữa các nhà buôn tiền nên để
thu hút được tiền từ trong dân cư, các nhà buôn đã trả lãi cho việc gửi tiền, từ
đó hình thành nên hai dịch vụ truyền thống và lâu đời nhất của ngành ngân
hàng đó là, huy động tiền gửi và cho vay.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng
đã không dừng lại ở hoạt động huy động tiền gửi và cho vay, mà ngân hàng
đã trở thành một trung gian tài chính quan trọng nhất, chuyên cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng, góp phần trở lại vào sự vận động và
phát triển của cả nền kinh tế.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khái niệm NHTM
Từ thực tế đó, các nhà kinh tế học trên thế giới đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau về NHTM. Căn cứ vào chức năng, các dịch vụ mà chúng
cung cấp hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có thể kể ra dưới
đây một số khái niệm tiêu biểu trong số đó:
Theo David W.Pearce (Anh) nêu trong cuốn Từ điển kinh tế học hiện
đại của Học viện công nghệ Massachusette thì NHTM “ là một tổ chức trung
gian tài chính mà hoạt động kinh doanh của nó chủ yếu là nhận tiền gửi không
kỳ hạn hoặc có kỳ hạn và sử dụng số tiền này để cho vay ngắn hạn, dài hạn,
chủ yếu dưới dạng chiết khấu kỳ phiếu, hoặc mua bán các loại tài sản tài
chính khác. Chức năng quan trọng của NHTM là duy trì hệ thống chuyển tiền
bằng cách nhận tiền gửi vào các tài khoản vãng lai và chuyển vốn bằng séc
hoặc chuyển khoản”.
Theo Giáo sư Peter S. Rose (Mỹ) thì “ngân hàng là loại hình tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Như vậy, đa số các nhà kinh tế học trên thế giới đều cho rằng NHTM là

cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản về
NHTM như sau:
NHTM là một trung gian tài chính. Như chúng ta đã biết, một trong
những chức năng quan trọng của NHTM là trung gian tài chính. Trước đây
quan hệ vay mượn xảy ra khi một người có lượng vốn nhàn rỗi gặp người
đang có nhu cầu sử dụng vốn. Người ta gọi đó là tài chính trực tiếp. Tuy
nhiên, quan hệ vay mượn kiểu này nảy sinh rất nhiều vấn đề bất lợi về không
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gian, thời gian, quy mô và khả năng đánh giá thông tin. Điều đó đã làm cho
chi phí giao dịch bị đẩy lên cao. Ngân hàng ra đời với chức năng quan trọng
là trung gian tài chính. Từ đây, những người đi vay và cho vay chỉ việc tìm
đến các ngân hàng để được đáp ứng nhu cầu cụ thể của mình. Điều này mang
lại sự thuận tiện cho cả hai bên là người đi vay và người cho vay. Mặt khác,
ngân hàng với trình độ chuyên môn cao, thẩm định các nguồn thông tin chính
xác đã làm giảm rủi ro, đồng thời với nguyên tắc giữ bí mật thông tin khách
hàng nên các ngân hàng đã được dân chúng tín nhiệm.
Hoạt động của các NHTM mang tính rủi ro. Các NHTM hoạt động kinh
doanh tiền tệ - một lĩnh vực đầy nhạy cảm và rủi ro. Đóng vai trò là trung
gian tài chính, NHTM vay tiền của người này để cho người khác vay lại. Do
đó, rủi ro xảy ra khi khách hàng vay tiền của ngân hàng mất khả năng trả nợ,
trong khi đó nghĩa vụ phải thanh toán cho người gửi tiền bất cứ lúc nào khiến
các ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngoài ra còn rất
nhiều loại rủi ro liên quan đến hoạt động của các ngân hàng, chính vì thế, để
giảm thiểu rủi ro và tăng tính an toàn trong hoạt động ngân hàng, hiện nay các
NHTM phải thực hiện rất nhiều các biện pháp phòng ngừa rủi ro như phải
thực hiện dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi của khách hàng, trích lập các quỹ
dự phòng, thực hiện các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu tối đa hoá giá trị vốn

vốn. Bên cạnh đó là các chiêu thức marketing nhằm giới thiệu, quảng bá hình
ảnh, sản phẩm và các hình thức khuyến mại đi kèm rất hấp dẫn.
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM được phép phát hành các loại
giấy tờ có giá như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác để huy động vốn khi được NHNN cho phép. Đây là kênh huy động vốn
không thường xuyên của các NHTM. Do gặp các vấn đề về chi phí cao, lượng
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vốn huy động lớn và đòi hỏi khả năng đánh giá, thẩm định chính xác các yếu
tố liên quan đến đợt phát hành như lãi suất, kỳ hạn,… mà các ngân hàng ít sử
dụng hình thức này. Chỉ khi nào xuất hiện nhu cầu vốn lớn như tài trợ cho các
dự án, mở rộng mạng lưới hoạt động,… các NHTM mới thực hiện huy động
vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
Vay các tổ chức tín dụng khác: Theo quy định của Luật các TCTD
thì, các TCTD được vay vốn của nhau và của TCTD nước ngoài. Trong quá
trình hoạt động các NHTM thường xuyên có mối quan hệ vay mượn lẫn nhau
để đáp ứng những nhu cầu thanh toán cấp thiết. Đặc điểm của các khoản vay
này là có kỳ hạn ngắn, thường tính bằng ngày. Người ta gọi đó là hoạt động
cho vay qua đêm giữa các NHTM. Trong điều kiện NHNN đang thực hiện
nhiều chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát như hiện nay, các
NHTM có thời điểm khan hiếm tiền VNĐ để thanh toán, vì thế hoạt động vay
mượn lẫn nhau của các NHTM diễn ra hết sức sôi động, đẩy lãi suất cho vay
qua đêm lên ở mức cao. Tuy vậy nhiều ngân hàng vẫn không có tiền để cho
vay. Trong những trường hợp cấp bách cần có tiền để thanh toán, trong khi
các hình thức huy động nêu trên không đáp ứng kịp, NHTM còn một kênh để
huy động vốn - vay của NHNN.
Vay NHNN: Theo quy định của Luật các TCTD, tổ chức tín dụng là
ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.
NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng sẽ tài trợ cho những nhu cầu
thanh toán ngay của các NHTM, đồng thời thông qua hoạt động cho các

hoá tài sản và phân tán rủi ro theo nguyên tắc không nên bỏ trứng vào cùng
một giỏ. Các NHTM có thể đầu tư vào thị trường tài chính hoặc tham gia hùn
vốn kinh doanh. Hiện nay các NHTM đang nắm giữ một lượng lớn các loại
chứng khoán, vì đây là tài sản không những mang lại tỷ suất sinh lời cao mà
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
còn rất thanh khoản. Ngoài ra, các NHTM còn đầu tư góp vốn vào những dự
án lớn hoặc thành lập các công ty. Với khả năng phân tích tài chính và thẩm
định dự án tốt, những dự án mà các NHTM góp vốn thường mang lại hiệu quả
tài chính cao. Tuy nhiên, để ngăn ngừa rủi ro cho các NHTM, Chính phủ một
số quốc gia đã quy định việc các NHTM tham gia đầu tư trên thị trường
chứng khoán phải có công ty tài chính hạch toán độc lập, đồng thời giới hạn
một tỷ lệ trên vốn điều lệ của công ty được phép đầu tư vào thị trường chứng
khoán.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian khác
Với vai trò là một trung gian tài chính, NHTM cung cấp một danh mục
các dịch vụ trung gian như: Ngân quỹ, thanh toán, chuyển tiền, tư vấn tài
chính, bảo lãnh, bảo quản vật có giá, mua bán ngoại tệ, ngân hàng điện tử,
thanh toán không dùng tiền mặt,… và thu phí từ những dịch vụ đó. Với sự hỗ
trợ đắc lực của công nghệ thông tin, các NHTM đang ngày càng mở rộng hơn
nữa việc cung cấp các dịch vụ đến tận tay khách hàng một cách nhanh nhất,
tiện lợi nhất mà tốn ít chi phí nhất.
1.2 Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM
1.2.1 Hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vốn của doanh nghiệp
Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thành phần quan trọng không thể thiếu trong nền
kinh tế thị trường. Xét theo quan điểm phát triển thì “doanh nghiệp là một
cộng động người sản xuất ra của cải vật chất. Nó sinh ra, phát triển, có những
thất bại, có những thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và

Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên
cơ sở tối đa hoá lợi ích người tiêu dùng thông qua tối đa hoá lợi ích chủ sở
hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
Như vậy, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp như
sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh với
mục tiêu tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Nghĩa là, hoạt động của doanh
nghiệp thu được lợi nhuận cao, đồng thời phải có tầm nhìn và chiến lược lâu
dài nhằm xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho doanh nghiệp - một thứ tài sản
vô hình.
Thứ hai: Doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
đinh. Doanh nghiệp tham gia vào các mối quan hệ kinh tế với tư cách là một
chủ thể độc lập về pháp luật.
Thứ ba: Hoạt động của các doanh nghiệp là quá trình đi tìm câu trả lời
cho ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Nghĩa là, doanh nghiệp phải xác định sản xuất hàng hoá hay dịch vụ nào, số
lượng cung ứng bao nhiêu, thời điểm nào? Đồng thời, phương pháp, hình thức
tổ chức sản xuất, trình độ công nghệ ứng dụng ra sao? Và cuối cùng doanh
nghiệp phải xác định sản xuất ra hàng hoá phục vụ đối tượng nào, quy mô và
khả năng tiêu thụ bao nhiêu để vừa đạt được lợi ích của doanh nghiệp, vừa
đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Vốn của doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh
nghiệp được thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn kết
hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất.
Đối với doanh nghiệp, sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình
sản xuất vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình, từ khi bắt đầu đến khi
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B

Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, vốn được xem như một loại
hàng hoá, một loại hàng hoá đặc biệt tách rời được quyền sở hữu và quyền sử
dụng. Nghĩa là, người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn cho người
khác trong một khoảng thời gian nhất định, giá của quyền sử dụng vốn đó
chính là lãi suất của khoản vốn. Chính nhờ vào đặc điểm này mà vốn có thể
lưu chuyển rộng rãi trong nền kinh tế. Hiện nay các doanh nghiệp có thể huy
động vốn bằng nhiều hình thức, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tuỳ thuộc vào đặc điểm và loại hình của từng doanh nghiệp.
- Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu: chủ yếu là từ vốn góp ban
đầu, lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu mới. Trong đó:
+ Vốn góp ban đầu: là khoản vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra ban đầu
để doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ vào từng loại
hình doanh nghiệp mà nguồn hình thành vốn góp ban đầu khác nhau. Nếu là
doanh nghiệp nhà nước thì vốn do nhà nước bỏ ra. Nếu là doanh nghiệp tư
nhân thì vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra. Nếu là công ty cổ phần thì
vốn do các cổ đông góp lại,…
+ Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: đây là nguồn vốn tích luỹ từ lợi
nhuận dùng để tái đầu tư. Tăng vốn từ lợi nhuận không chia được gọi là hình
thức tự tài trợ của doanh nghiệp. Hàng năm cùng với sự tăng lên của quy mô
doanh nghiệp, quy mô vốn chủ sở hữu cũng phải tăng lên. Vốn từ lợi nhuận
không chia làm tăng quy mô vốn ban đầu của doanh nghiệp, nếu doanh
nghiệp làm việc có hiệu quả thì càng có điều kiện tăng trưởng nguồn vốn.
Ngoài ra, tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là hình thức tạo nguồn tài chính
quan trọng và khá hấp dẫn đối với doanh nghiệp, do chi phí thấp và giảm
được sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới: đây là hình thức huy động vốn
chủ yếu của các công ty cổ phần. Các công ty này có thể tăng vốn chủ sở hữu
bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới, cổ phiếu là các chứng chỉ, hoặc các

nghiệp cần xác định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái
phiếu.
Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi
thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường theo một tỷ lệ chuyển đổi
và thời gian chuyển đổi xác định trước. Trái phiếu chuyển đổi là một công cụ
tài chính vừa có khả năng sinh lời của một cổ phiếu vừa có sự an toàn của một
trái phiếu. Trái phiếu chuyển đổi cho phép đáp ứng được nhiều mục tiêu đầu
tư khác nhau, người mua trái phiếu chuyển đổi có thể thu được lãi vốn trong
trường hợp tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả và giá cổ
phiếu phổ thông tăng cao. Ngược lại nếu giá cổ phiếu của tổ chức phát hành
sụt giảm, người nắm giữ trái phiếu có thể không chuyển đổi mà chỉ đầu tư
đơn thuần như một trái phiếu để nhận lãi coupon hàng năm và thu hồi vốn gốc
khi trái phiếu đáo hạn.
Tóm lại, phát hành trái phiếu là một hình thức huy động vốn trung dài
hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc lựa chọn trái phiếu để phát hành cho
thích hợp có một ý nghĩa quan trọng, vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách
thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Do đó ảnh
hưởng tới hiệu quả của đợt phát hành.
+ Tín dụng thương mại: tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa
các doanh nghiệp, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả
chậm hay trả góp hàng hoá. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết
sức to lớn đối với doanh nghiệp. Tài trợ bằng nguồn tín dụng thương mại là
phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, tạo khả năng
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Công cụ của tín
dụng thương mại là các thương phiếu. Thương phiếu bao gồm Hối phiếu và
Lệnh phiếu.
Hối phiếu là giấy ghi nợ do người bán ký phát trao cho người mua,
trong đó yêu cầu người mua phải trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho

giao hợp đồng, mọi quyền lợi và nghĩa vụ về tài sản được chuyển giao cho
người thứ hai, tuy nhiên người thuê thứ nhất vẫn chịu trách nhiệm liên đới.
+ Tín dụng ngân hàng: là hình thức tài trợ mà ngân hàng thoả thuận để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Có thể nói, tín dụng ngân hàng là một trong những hình thức huy động vốn nợ
quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngày nay, hoạt động của
doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do ngân hàng thương mại
cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Phân loại theo thời gian, tín dụng ngân hàng bao gồm: tín dụng ngắn
hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: nhằm tài trợ cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của
doanh nghiệp như mua nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân viên và các
nhu cầu thanh toán khác. Để được vay vốn, các doanh nghiệp cần phải làm
đơn và trình bày với ngân hàng kế hoạch sử dụng tiền vay. Ngân hàng xác
định hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ cùng các
điều khoản có liên quan. Nếu người vay không lập kế hoạch từ trước thì ngân
hàng sẽ tính toán nhu cầu vay cho từng phương án để tính số tiền cần cho vay.
Nếu không phân tích được phương án vay thì ngân hàng sẽ quyết định số tiền
cho vay dựa trên tài sản đảm bảo.
Tín dụng trung và dài hạn: nhằm tài trợ cho các nhu cầu mua sắm trang
thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cải tiến trang bị kỹ thuật...
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định... để thực hiện dự
án, khách hàng có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân
hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư
cũng như quá trình thực hiện dự án sản xuất kinh doanh. Phân tích và thẩm
định dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định
khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn có nhiều ưu điểm đối

+ Quy mô khoản vay: các doanh nghiệp thường vay những khoản vốn
lớn và mang tính kế hoạch. Do những đặc điểm như vậy mà đối với khách
hàng doanh nghiệp các NHTM thường có những bộ phận riêng để đáp ứng
nhu cầu khách hàng. Điều này không những tăng cường tính chuyên nghiệp
của sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn hạn chế rủi ro cho các khoản vay, do
quy trình thực hiện các khoản vay này rất chặt chẽ.
+ Số lượng khách hàng doanh nghiệp là ít so với những đối tượng
khách hàng khác. Do nhu cầu vốn của các doanh nghiệp lớn và thường xuyên,
chính vì thế các ngân hàng rất thận trọng trong xét duyệt và cho vay đối với
đối tượng khách hàng này. Thay vào đó, các NHTM thường thiết lập một mối
quan hệ lâu dài và tin cậy với từng doanh nghiệp.
+ Thời hạn vay: đối với khách hàng doanh nghiệp thời hạn vay được
căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn và khả năng trả
nợ của khách. Hiện nay các NHTM có thể cho doanh nghiệp vay ngắn hạn
(không quá 12 tháng), trung hạn (từ 12 đế 60 tháng) hoặc dài hạn (trên 60
tháng).
+ Nguồn trả nợ: nguồn trả nợ cho các khoản vay đáp ứng nhu cầu kinh
doanh của doanh nghiệp là lợi nhuận thu về từ phương án kinh doanh đó. Nó
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác với cho các cá nhân vay tiêu dùng, đối với cá nhân vay tiêu dùng thì
nguồn trả nợ là thu nhập của người đi vay. Chính vì thế khi quyết định cho
các doanh nghiệp vay, bên cạnh việc thẩm định các yếu tố khác, NHTM còn
phải thẩm định rất kỹ phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó,
nếu phương án khả thi thì mới quyết định cho vay.
+ Lãi suất: các NHTM có các chính sách lãi suất linh động cho từng
khách hàng tại từng thời điểm cụ thể và phù hợp với các quy định của NHNN.
Các loại lãi suất đó có thể là lãi suất cố định, lãi suất thả nổi, lãi suất gộp, lãi
suất cho vay hợp vốn hoặc lãi suât ưu đãi. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất
ngân hàng là một loại chi phí và nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của

khách hàng, trong đó, có một ngân hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với
các ngân hàng khác.
+ Cho vay trả góp: là phương thức cho vay mà ngân hàng và khách
hàng thoả thuận số lãi phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời hạn tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là phương thức cho vay mà
ngân hàng đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức
tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực và
mức phí của hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: là
phương thức cho vay mà ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng
vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá,
dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại
lý của ngân hàng.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là phương thức cho vay mà ngân
hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trên tài khoản thanh toán của khách hàng. Khách hàng chỉ được phép chi vượt
trong hạn mức cho phép đã thoả thuận với ngân hàng.
+ Các phương thức cho vay khác
Quy trình cho vay doanh nghiệp
Quy trình cho vay doanh nghiệp là một bản hướng dẫn về trình tự tổ
chức thực hiện các nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ cho vay trong
ngân hàng. Quy trình cho vay bắt đầu từ khi món vay phát sinh cho đến khi
ngân hàng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Quy trình cho vay được soạn ra nhằm
mục đích giúp cho quá trình vay được diễn ra một cách thống nhất, khoa học,
hạn chế rủi ro đồng thời nâng cao chất lượng cho vay, góp phần đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng. Quy trình cho vay mang tính chất định hướng cơ bản
và tổng quát nhất, từ đó cán bộ tín dụng cần căn cứ vào tình hình cụ thể của

hàng, từ đó có biện pháp kịp thời để xử lý. Việc kiểm tra giám sát các khoản
vay có thể được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất và phải có biên bản kiểm tra.
Bước 7: Thu nợ gốc và lãi, đồng thời xử lý những phát sinh: cán bộ tín
dụng có trách nhiệm thu lãi và gốc đúng hạn theo quy đinh trong hợp đồng tín
dụng. Trường hợp có những phát sinh đối với các khoản vay như trả nợ trước
hạn, thu nợ trước hạn, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn, khoanh nợ,… cần được
xử lý theo đúng với quy định của pháp luật và của ngân hàng.
Bước 8: Thanh lý hợp đồng tín dụng: sau khi khách hàng trả hết nợ gốc,
lãi và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khác liên quan thì hợp đồng tín dụng
đương nhiên hết hiệu lực. Khi đó ngân hàng tiến hành giải chấp tài sản bảo
đảm, xuất kho các giấy tờ tài sản thế chấp, cầm cố, lập biên bản bàn giao lại
tài sản cho khách hàng.
Trương Xuân Hải Ngân Hàng 46B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2 Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM
1.2.2.1 Khái niệm
Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa
trừu tượng của hoạt động cho vay nói chung và cho vay doanh nghiệp nói
riêng là chất lượng cho vay. Chất lượng cho vay tốt thể hiện ngân hàng sử
dụng vốn hiệu quả, uy tín ngân hàng được nâng cao.
Chất lượng cho vay được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của
ngân hàng.
Như vậy khi xem xét chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM cần
tính đến ba yếu tố là NHTM, các doanh nghiệp, và nền kinh tế.
Thứ nhất: Chất lượng hoạt động cho vay xét từ giác độ NHTM
Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM thể hiện ở phạm vi, mức
độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, năng lực theo hướng tích
cực của bản thân NHTM, và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,
đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động cho


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status