Tài liệu Tài liệu nuôi tôm chính thống (Cẩm nang câu hỏi dành cho người nuôi tôm) phần 3 (1) - Pdf 29

Tài liệu nuôi tôm chinh thống

Tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp - một điển hình mới ở Cà Mau
Tại ấp Nhị Nguyệt (xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi-Cà Mau), đi tiên phong
trong nuôi tôm công nghiệp là ông Hai Tới (tức Trần Văn Của). Là một cán
bộ hưu trí, ông Hai Của luôn trăn trở phải sản xuất cây gì, nuôi con gì trên
đồng đất ngập mặn quê mình.

Nghe ở đâu có mô hình hay, hiệu quả và phù hợp với đồng đất nhiễm phèn
mặn là ông đến học hỏi về áp dụng. Ông cơm đùm cơm nắm lần mò đến tận
kinh xáng Đội Cường (xã Tân Hưng, huyện Cái Nước) dò xem mô hình nuôi
tôm công nghiệp của Công ty TNHH Nam Sương liên doanh với Thái Lan
cho hiệu quả kinh tế cao, tôm nuôi ít bị bệnh, mau lớn. Đối chiếu ông thấy
điều kiện thổ nhưỡng của ấp Nhị Nguyệt cũng có thể nuôi được tôm công
nghiệp.

Trở về ông mạnh dạn bỏ vốn đầu tư 2 ao nuôi tôm công nghiệp. Sau vụ nuôi,
ông thu hoạch thắng lợi và tiếp tục nhân rộng. Mặt khác, ông đề nghị ngành
Thuỷ sản có những hỗ trợ để mô hình này phát triển bền vững. Được sự giúp
đỡ của Sở Thủy sản và Trung tâm Khuyến ngư, Phòng NN-PTNT huyện
Đầm Dơi, ông Hai Tới và nhiều hộ nuôi tôm trong vùng được tập huấn kỹ
thuật nuôi tôm công nghiệp. Từ đó phong trào nuôi tôm công nhgiệp ở ấp
Nhị Nguyệt phát triển mạnh mẽ.Ông Hai Tới đã đứng ra bàn bạc với 14 hộ
hộ nuôi tôm trong ấp liên kết lại thành tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp, đề
nghị các cấp có thẩm quyền công nhận, tạo cơ sở pháp lý để tổ hợp tác được
vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất.Từ 15 tổ viên ban đầu, đến nay tổ
hợp tác nuôi tôm công nghiệp Nhị Nguyệt do ông Hai Tới làm Tổ trưởng đã
phát triển lên 50 tổ viên với tổng diện tích ao nuôi là 38ha (120 ao nuôi).
Năm 2006, tổng doanh thu của tổ đạt 4,2 tỷ đồng trừ chi phí đạt lợ nhuận 1,2
tỷ đồng (bình quân trên 81 triệu đồng/1 tổ viên/1 năm).


phát triển lên 50 tổ viên với tổng diện tích ao nuôi là 38ha (120 ao nuôi).
Năm 2006, tổng doanh thu của tổ đạt 4,2 tỷ đồng trừ chi phí đạt lợ nhuận 1,2
tỷ đồng (bình quân trên 81 triệu đồng/1 tổ viên/1 năm).

Rõ ràng hiệu quả từ mô hình tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp ở ấp Nhị
Nguyệt (xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi) là rất hiệu quả, cần được nhân rộng.
Đây có thể coi là một điển hình của mô hình kinh tế tổ hợp tác ở ĐBSCL
nhất là trong tình hình hiện nay nhiều HTX, tổ hợp tác ở tỉnh này đang làm
ăn thua lỗ, có nguy cơ phá sản
“Vua tôm” công nghiệp Trần Trí Sự

Khởi nghiệp nuôi tôm công nghiệp vào năm 2002, khi ấy “vua tôm” công
nghiệp Trần Trí Sự vừa tròn 26 tuổi. Anh tiến hành cải tạo hai đầm nuôi tôm
công nghiệp, mỗi đầm có diện tích 4.500m2, thả hai vụ/năm. Do bước đầu
thực hiện còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức thực tiễn, nên kết quả
không cao, chỉ đạt hơn 2 tấn tôm, thu lãi hơn 220 triệu đồng. Sau bao đêm
suy nghĩ, anh đã đến các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng tìm hiểu kinh nghiệm,
vừa học vừa làm. Từ quy trình đào đầm, đến quy trình thả nuôi, chăm sóc,
cách thức quản lý đến các tiêu chuẩn kỹ thuật. Đến năm 2005, anh quyết
định chuyển toàn bộ 9,8ha đất sang nuôi tôm công nghiệp với 12 đầm nuôi.
Vừa học, vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm, thu hoạch vụ sau cao hơn vụ
trước. Trong năm 2007, với 12 đầm nuôi tôm cho thu hoạch gần 40 tấn tôm,
doanh thu hơn 4,2 tỷ đồng. Anh Trần Trí Sự, cho biết: Nghề nuôi tôm công
nghiệp rủi ro rất cao, dễ nhưng khó. Bởi trong thực tế nhiều hộ học nuôi
trúng vụ đầu, thường hay thỏa mãn, nên các vụ sau thường hay bị gãy. Còn
riêng đối với “vua tôm” công nghiệp Trần Trí Sự, càng nuôi, anh càng học
hỏi nhiều hơn. Bởi càng nuôi càng khó, phát sinh nhiều vấn đề mới, bệnh
mới. Nhất là hiện nay, môi trường nước ngày càng bị ô nhiễm, thời tiết diễn
biến bất thường, người nuôi tôm phải đương đầu với nhiều loại dịch bệnh.
Theo“vua tôm” công nghiệp Trần Trí Sự thì yếu tố hàng đầu dẫn đến thành

chủ yếu để nuôi trên diện tích đất nhà, rồi dần về sau phát triển thêm đôi ba
hầm để bán cho bà con lân cận. Cứ thế, cho đến số lượng 30 ao, chiếm hết cả
mặt đất quanh nhà, đến bờ sông, ra tận liếp dừa. Đâu đâu cũng thấy khít kẽ
từng ô hầm như một bàn cờ. Xóm làng có cả chục hộ làm theo để bán cho
người mua ở tận Thới Bình, U Minh, Bạc Liêu, Kiên Giang… Cách nuôi
vèo bằng hầm đất và chăm sóc của chú Phạm Minh Hữu cũng gần giống như
cách làm ở các trại tôm giống nhưng được người nuôi tôm rất chuộng, vì:
thứ nhất, trong thời gian vèo bằng hầm đất, những con yếu, nhỏ sẽ chết, chỉ
còn lại tôm khỏe mạnh đạt chất lượng. Thứ hai, sau 15 ngày vèo, tôm có
chiều dài 3 phân trở lên, rất mạnh và nhanh lẹ. Thứ ba, trong thời gian vèo
tôm đã được thuần nước nên khi thả nuôi không bị sốc nước, đảm bảo được
số lượng. Đây cũng là 3 yếu tố rất cơ bản để người nuôi có được sản lượng
cao.
Còn phần đất ruộng chú làm hai đầm nuôi tôm công nghiệp có diện tích mặt
nước 5000m2, lượng tôm thả mật độ thưa và mỗi năm chỉ nuôi một vụ,
khoảng thời gian còn lại chú để không, cho đất đủ thời gian phân hủy các
chất độc hại. Với phương châm chậm mà chắc, trong gần chục vụ nuôi tôm
công nghiệp, chú chưa thất bại lần nào. Nhờ cần mẫn, từ nuôi tôm, nuôi cá
chình, bống tượng, mỗi năm chú có thu nhập bình quân trên 300 triệu đồng.
Tóm tắt

Khả năng phòng bệnh đốm trắng của tôm sú được khám phá nhờ vào kỹ
thuật RNA can thiệp bằng cách cho tôm ăn vi khuẩn được làm bất hoạt có
chứa WSSV VP28dsRNA. Có hai phương pháp được thử nghiệm. Phương pháp thứ nhất là trộn vi
khuẩn có chứa VP28dsRNA vào trong thức ăn viên cho tôm ăn. Phương
pháp hai trộn phức hợp mảnh nhỏ VP28dsRNA-chitosan vào trong thức ăn
viên cho tôm ăn. Tôm khoẻ được gây cảm nhiễm bệnh đốm trắng bằng cách

Thông thường, động vật không xương sống như tôm không có hệ thống đáp
ứng miễn dịch như ở những loài động vật có xương sống. Tuy nhiên, thí
nghiệm đã chỉ ra rằng những tôm sống sót sau khi bị nhiễm WSSV sẽ có tỉ lệ
sống cao hơn khi tái cảm nhiễm. Chúng tôi nghiên cứu khả năng của vacxin
cho tôm thông phương pháp cho ăn, vacxin này chứa protein vỏ của WSSV.
Tôm sú (Penaeus monodon) được cho ăn thức ăn viên áo bên ngòai 1 lớp vi
khuẩn không họat động biểu hiện 2 lọai protein vỏ của WSSV là VP19 và
VP28. Vacxin chứa VP28 cho thấy tỉ lệ chết của tôm thấp hơn có ý nghĩa
khi so sánh với lô đối chứng (vi khuẩn chỉ chứa vector rổng) thông qua
phương pháp ngâm (tỉ lệ sống 61%), trong khi đó vacxin chứa VP19 không
thể hiện sự bảo vệ nào. Để xác định sự tấn công và thời gian bảo vệ của
vacxin, thí nghiệm cảm nhiễm được thực hiện sau khi sử dụng vacxin 3, 7 và
21 ngày. Tỉ lệ sống cao hơn có ý nghĩa được quan sát sau khi tôm sử dụng
vacxin 3, 7 ngày (64% và 77%), nhưng sự bảo vệ đã giảm sau 21 ngày (tỉ lệ
sống 29%). Trái với những hiểu biết hiện tại, động vật không xương sống
không có hệ thống đáp ứng miễn dịch nhưng kết quả này cho thấy đáp ứng
miễn dịch đặc hiệu và khả năng bảo vệ có thể tạo ra ở P. monodon. Các thí
nghiệm trên mở ra con đường mới phòng WSSV mang lợi ích cho công
nghiệp nuôi tôm.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status