TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CHÂU MƯỜNG LA TRONG THỜI KỲ PHÁP THUỘC (1895-1945) - Pdf 30

TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CHÂU MƢỜNG LA
TRONG THỜI KỲ PHÁP THUỘC
(1895-1945)

Hà Văn Thu
Thành viên Nhóm Thái học Việt Nam tỉnh Sơn La Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp đã chiếm được miền Tây Bắc nói chung và tỉnh
Sơn La nói riêng. Năm 1895 người Pháp lập ra tỉnh Sơn La, bộ máy của tỉnh gồm có: 04
người Pháp - công sứ, chánh kho bạc, giám binh, cai ngục và tuỳ thời gian có thêm phó
sứ.
Công sứ có toà công sứ gồm các chức dịch người Kinh thường gọi là các thầy
thông, thầy phán
Dưới quan kho bạc có các lính canh
Giám binh có trại lính
Cai ngục có lính canh
Như vậy, chỉ có 4 (hoặc 5) người Pháp cai quản, còn tất cả đều là người Thái,
người Kinh.
Dưới tỉnh có 6 châu mường gồm: Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu,
Mộc Châu và Phù Yên.
Bộ máy tổ chức châu mường có những chi tiết khác nhau. Dưới đây tôi chỉ xin
trình bày châu Mường La trực thuộc công sứ như sau:
Cấp châu, những người được ăn lương của thực dân Pháp gồm: Án Nha (tri châu), Á
n
Nha Uý (Phó tri châu), lục sự và các thư ký chuyên ngành có từ 6-8 người, có một tiểu
đội lính cơ làm công việc canh gác công sở và coi phạm nhân khi có.
Ở cấp dưới châu không được ăn lương, chỉ có ruộng và "cuông, nhốc" thì có Phìa (lý
trưởng), các ông Xổng (kỳ mục). Riêng châu Mường La, tại châu lỵ có 04 Xổng (04 Kỳ mục)
là: Xổng Pằn, Xổng Poọng, Xổng Ho Luông và Xổng Lam Ho.
Dưới Xổng có các bộ phận giúp việc gồm: quan Chiềng, quan Sự, quan Phòng,

cai quản, được hưởng 02 ha ruộng chức và chọn một bản có từ 05 đến 10 hộ vừa làm
"cuông", vừa làm "nhốc".

1
Bản Cuông: là m các công việc phục dịch trong gia đình nhà quan như sửa chữa nhà cửa, củi đóm, cỏ ngựa.
Bản Nhốc: hà ng năm theo mùa vụ đến là m ruộng cho chủ, là m nương lúa nương bông cho nà ng
+ Ông quan Sự phụ trách công việc bắt bớ, giam cầm tội phạm trong phạm vi cai
quản của Xổng, được hưởng 02 ha ruộng chức và có từ 5-8 hộ làm "cuông, nhốc" và
cùng cai quản các bản của Xổng.
+ Ông quan Phòng làm các công việc thu gom gạo, thịt, rượu khi có quan trên
xuống kinh lý, kể cả lấy gái xoè múa hát, được hưởng 1-1,5 ha ruộng chức và 3-5 hộ làm
"cuông, nhốc".
+ Ông Pách làm các công việc sức lính, bắt đi phu trong phạm vi cai quản của
Xổng, được hưởng 1-1,5 ha ruộng chức và 3-5 hộ làm "cuông, nhốc".
Nói chung các Xổng và các quan chức dưới Xổng đều có quyền như nhau. Riêng
Xổng Lam Ho (kỳ mục thứ 4) còn phải làm thêm các công việc môi giới giữa cấp dưới
với cấp trên. Những công việc trong châu mường có khuyết cần được sự thay thế có thể
qua ông Lam Ho trình lên cấp trên ý định việc muốn xin hay muốn thay thế. Xổng này
còn có bộ phận Mo, Chang phụ trách lễ tân.
+ Ông Mo phụ trách tổ chức các lễ hội bản mường, ghi sổ sách lịch sử, phong tục
tập quán và gia phả của dòng họ quý tộc trong châu mường. Ngoài ra còn lập sổ xem
ngày lành tháng tốt để thực hiện mọi phong tục tập quán của dân tộc Thái.
+ Ông Chang phụ trách việc giao dịch của châu mường mình với các châu mường
khác và giúp các công việc của ông Mo.
Hai ông này, mỗi ông được hưởng 1-1,5 ha ruộng chức và 03 hộ làm "cuông" 05
hộ làm "nhốc"
Dân thường ở Mường La thời đó chia làm hai loại:
+ Loại dân làm "cuông, nhốc" không phải đi lính, đi phu. Nếu tự nguyện đi lính thì
được hưởng một xuất ruộng công.
+ Dân gọi là gánh vác (háp bék) được ăn chia ruộng công nhưng phải đi làm các

TRONG CUỘC KHỞI NGHĨA THÁI NGUYÊN NĂM 1917
Cầm Trọng

Vào đầu năm 1914 ở khu rừng già vùng Mu Tưi, Chì Lồng, Mường Ái… nơi ranh
giới giữa hai châu mường (
2
) Mộc Châu, Yên Châu (Sơn La) và Lào có người Hoa tên là
Hấu Sám đã tập hợp được nhiều người đến luyện tập quân sự và chuẩn bị nổi dậy chống
chính quyền thực dân xâm lược Pháp. Ông đã kết bạn thân và được sự ủng hộ ngầm của
thủ lĩnh Mộc Châu Xa Văn Cả. Song sau gần 6 tháng hoạt động Hấu Sám đã bị lộ. Ông
phải bí mật cùng chiến hữu rút sang Lào để sát nhập với quân Lường Sám (
1
)
Lường Sám tên thật là Lương Bảo Định (Liềng Pâu Tềnh). Sám là Tam tức Lương
Tam - con thứ ba trong gia đình. Người Thái thời đó gọi ông bằng tên
kính trọng là Ông
Lượng. Ông từng tham gia phong trào Cần Vương (1885-1896)
. Và bây giờ trở thành thủ
lĩnh tiêu biểu cho cuộc khởi nghĩa này. Lúc đầu ông ở Mai Châu, Đà Bắc (Hoà Bình),
năm 1914 ông sang Sầm Nưa để tổ chức lực lượng đánh Tây. Lúc khởi nghĩa ông xưng là
đô đốc, nên có thêm tên là Lương Đô Đốc (Liềng Tứ Túc).
Cũng trong thời gian đó, ở khu vực Ít Ong, Mường Trai, Tạ Bú có phìa Cầm Văn
Tứ và Mùng Ửng (người Hoa sinh sống ở Tạ Bú) đã kết bạn thân và cùng nhau tích cực
chuẩn bị lực lượng để chờ thời cơ nổi dậy đánh Pháp. Cầm Văn Tứ còn
là người tổ chức
cuộc họp ở khu rừng Bó Cá (Mường La - nay là thị xã Sơn La)
để thuyết một số thủ lĩnh
châu mường cùng nổi dậy theo Lường Sám chống Pháp. Tới dự có: Cầm Văn Oai (Mai
Sơn), Cầm Văn Quế (Mường La) và Bạc Cầm An (Thuận Châu). Họ đã bàn bạc và kết
quả: Bạc Cầm An, Cầm Văn Quế đã tỏ thái độ không tham gia phong trào khởi nghĩa;

Căm vịa mẳn tự tự hẳu khói vên khôm
Ba đời người Thề quyết không bỏ mặc nhau
Xam chua cốn hón hên béng vang căn đảy.
Lời thề ấy để con cháu ghi nhớ "
Kin mang vạy lụk lan chăm chứ…" (
2
)

Phong trào chuẩn bị nổi dậy chống thực dân Pháp ngày càng lan rộng Ở Thuận
Châu, viên công sứ tỉnh Sơn La ten là Boucher (Busê) đã theo đơn kiện của Bạc Cầm An
mà cách chức tri châu Bạc Cầm Châu. Bạc Cầm Châu đã cùng ông Này Phán Chủng
người Hoa chuẩn bị lực lượng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Ở Yên Châu thủ lĩnh Hoàng
Văn Bun đã theo khởi nghĩa (
3
). Phong trào ở tuyến dọc sông Mã có Lường Văn Nó là
phìa Mường Lầm cùng em là Lường Văn Hôm ở bản Vơn đương giữ chức tạo lộng Nặm
Pù đã liên hệ được với Lường Sám ở Sầm Nứa. Cầm Văn Ý phìa Mường Hung, Cầm Văn
Nối phìa Chiềng Cang đều là những người ủng hộ cuộc khởi nghĩa (
4
)
Trong vùng đồng bào Mường ở bản Văn (xã Chim Vàn, huyện Bắc Yên, Sơn La)
có Mùi Văn Plôi là tổng cơ, ông Đinh Văn Píp, Đinh Văn Cu đứng đầu.

3
Tà i liệu do ông Cầm Văn Chung con trai của cụ Cầm Văn Tứ cùng một số người am hiểu tình hình
thời bấy giờ cung cấp. Ông Cầm Văn Chung là người được cho chọn để là m công việc phục dịch cho
cuộc họp và về sau chính ông đã được cha cho biết chính kiến của mình. Câu chuyện được tác giả
ghi lại và o tháng 2 năm 1970 lúc ông Cầm Văn Chung đã ở và o tuổi 70. Bản ghi nà y đã đánh máy
lưu giữ tại Ban Dân tộc Khu uỷ Tây Bắc -1971


Lường Sám. Nhưng khoảng đầu tháng 12 năm 1914 trong một đêm đông rét mướt người
sông Mã đã bí mật chuẩn bị 20 chiếc thuyền chở giúp nghĩa quân vượt sông và dẫn
đường để nghĩa quân tập kích vào đúng vị trí xung yếu. Tuyến phòng thủ của cánh quân
do Bạc Cầm An và Lò Văn Cuộc chỉ huy đã bất ngờ, nhanh chóng bị chọc thủng. Đúng
như nhiều bản Quam Tô mương ghi:
" Bạc Cầm An và Lò Văn Cuộc người Mường Mụa theo lệnh chánh sứ Sơn La
đem 300 lính khố xanh ra đóng ở Chiềng Khương; giữa đêm họ bị người Hán cùng người

4
Trong thời gian nà y ở Nghĩa Lộ (huyện Văn Chấn, Yên Bái) cũng đã nổ ra cuộc nổi dậy của đồng
bà o Dao do Lý Văn Minh lãnh đạo. Quân khởi nghĩa hoạt động ở vùng sông Thao thuộc Là o Cai và
Yên Bái gây cho địch nhiều thiệt hại
sông Mã đánh bất ngờ. Lò Văn Cuộc trúng đạn bị thương nặng, nhờ có lính cõng thạy
thoát thân về nhà ".
" Ông Lò văn Cuộc là đội lính khố xanh đã từng bị quân của người Mỡo bắn bị
thương hồi theo sự chỉ huy quan Tây đi đánh ở Lộng Cống Lộng Mụ (Mù Cang Chải -
Yên Bái). Sau khi khỏi ông tiếp tục nhậm chức đội khố xanh chỉ huy quân trấn áp cuộc
bạo động của những tù nhân ở Sơn La do Cai Khạt người Thái Mường Than (Than Uyên
- Lai Châu) đứng đầu (1908). Nay ông lại theo lệnh quan Tây đem quân ra Chiềng
Khương bị người sông Mã bắt suýt chết "
"Án nha Bạc Cầm An định chạy ngược sông Mã lên Mường Lầm, nhưng không
kịp, phải lánh lên bản người Xá ở gần đó. Giữa đường ông bị người sông Mã giết chết.
Họ dã bỏ xác ông xuống dòng sông Mã " (
8
).
Ở Mường Lầm có phìa Lường Văn Nó; ở Chiềng Cang có phìa Cầm Văn Ý; ở
Mường Hung có phìa Cầm Văn Nối đã theo nghĩa quân đứng tên làm chủ (
5
). Chính hai
ông Ý và Nối đã không những cho phép người sông Mã theo Lường Sám mà còn khuyến

- Sơn La) và bản Vàn do Mùi Văn Plôi lãnh đạo đã nổi dậy chiếm trạm bưu điện và giết
chết tên trưởng trạm người Pháp, cắt đứt đường liên lạc bằng điện thoại giữa Sơn La -
Yên Bái - Hà Nội. Song thật tiếc thay việc làm này đã không kịp thời. Bởi vì trước đó
dinh chánh sứ Sơn La đã gọi cầu cứu về Hà Nội rồi. Sau đó nghĩa quân đã cử Lò Văn
Tún đem đầu người Pháp là trưởng trạm bưu điện ấy lên Sơn La nộp cho nghĩa quân
Lường Sám. Sau này chính quyền thực dân Pháp còn dựng đài kỷ niệm trưởng trạm bưu
điện bị nghĩa quân giết ở bản Pá Ngà (nay thuộc huyện Bắc Yên - Sơn La). Và giờ đây các
đài kỷ niệm đó đã chìm xuống lòng hồ thủy điện sông Đà rồi.
Cuộc chiến đấu ở đồi Khâu Cả diễn ra ác liệt. Quân Pháp dùng hoả lực mạnh bắn
ra hòng phá vòng vây quân khởi nghĩa. Nhưng như Quam tô mương ghi: "… Sau nhiều
lần tấn công, trại ấy vẫn không bị phá…" (
11
).
"… Phìa Mường Trai, cùng với người Hán, người Thái ở Tạ Hộc, Tạ Chan, bản
Áng, Ít Ong, Chiềng Tè… đã làm nội ứng cho Lường Sám khi đánh về SơnLa…" (
12
).
Ở Hà Nội, chính quyền thuộc địa Pháp biết tin đã điện lệnh đến tiểu khu Yên Bái,
Và người Pháp ở đây tức tốc cử quan hai Moneau (Mông sô) chỉ huy 80 binh lính hành
quân lên cứu nguy cho Sơn La. Phìa Mường Chai Cầm Văn Tứ chỉ huy đã bố trí mai
phục tại Tạ Iủ (nay thuộc xã Pák Ngà, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La). Song Moneau có
người dẫn đường đã không theo con đường đó mà đi trên tuyến: Yên Bái - Nghĩa Lộ -
Ngọc Chiến - Sơn la. Tại Tạ Bú phía trên Tạ Iủ cũng có 10 nghĩa quân mai phục bắn bị
thương 6 lính Pháp. Tại đỉnh đèo Khâu Phạ (nay thuộc xã Chiềng Xôm, thị xã Sơn La)
nghĩa quân cũng mai phục định quyết một phen sống mái với quân thù. Song, ở Mường
Bú có người phản bội đã báo và dẫn quân Pháp đi tắt qua đường Pu Cưa để đánh tập hậu
bất ngờ. Nghĩa
quân ứng phó không kịp phải bỏ vị trí chạy về Mường Bú và qua tả ngạn sông
Đà với Cầm Văn Tứ trong lúc Lường Sám chẳng hay biết gì. Mon


quân còn đột nhập Mường Bôm (Mường Tè) giết chết quan một Quesnel (Két-snen) và 33
lính Pháp. Tháng 2/1916 nghĩa quân đánh chiếm Mường Xo (Phong Thổ) và sau đó rút
hẳn về Vân Nam Trung Quốc (
13
).

* *
*

6
Sau cuộc khởi nghĩa nà y, Sa Văn Minh trở thà nh con rể của Cầm Văn Oai, thay cha trị vì Mộc Châu,
được hà m bố chính. Cách mạng tháng 8-1945 ông đã theo. Năm 1946 được bầu là m đại biểu quốc
hội khoá I nước Việt Nam DCCH (nay là CHXHCN Việt Nam). Năm 1947-1954 được cử là m chủ
tịch Sơn La. Năm 1955-1957 giữ chức Chủ tịch Khu tự trị Thái - Mèo (Tây Bắc) và từ trần lúc đương
chức

Trong những tháng cuối năm 1916, khi tình hình ở miền Tây Bắc đã tạm yên,
chính quyền thực dân Pháp đã lập TOÀ ÁN BINH SƠN LA để xét xử những NGƢỜI
YÊU NƢỚC. Quam tô mương ghi: "… Những người Thái chống lại Tây đã bị cách
chức, tù đầy, bắt giết…" (
14
).
Bạc Cầm Châu nguyên tri châu Thuận Châu và Lường Văn Nó phìa Mường Lầm
(lúc bấy giờ thuộc Thuận Châu, nay thuộc sông Mã - Sơn La) cùng hàng chục thủ lĩnh
người Hoa bị xử bắn tại bãi phía sau đồi Khâu Cả. Nay là khu nghĩa trang liệt sỹ cách
mạng của tỉnh Sơn La (
7
)
Nhiều thủ lĩnh Thái do thực dân Pháp ghép tội theo nghĩa quân nên bị cách chức,
Quam tô mương ghi về trường hợp: "… Ở Mường Vạt (Yên Châu), có người mách với

tú của dân tộc ta. Các chiến sỹ trong nhà tù đã đặt tên cho bãi là "Khu Gốc ổi" và hiểu theo nghĩa
tương tự như người Hà Nội nói "đi Văn Điển" vậy
Nặm Pù nên người đương thời thường gọi tên ông là Tạo Năm Pù; Cầm Văn Tứ nguyên
là phìa Mường Trai thuộc châu Mường La, người thời đó thường gọi ông là Phia Lý Tứ.
Hai ông này nhẽ ra phải chịu án tử hình tại Sơn La như Bạc Cầm Châu, Lường Văn Nó…
Nhưng nhờ lực lượng chống án, trong đó có Cầm Văn Oai và một người Pháp bạn thân
của Cầm Văn Tứ tên là Charle Larif, từ án tử hình xuống phát lưu. Đầu tiên hai ông bị đi
đày ở Côn Đảo. Lực lượng chống án lại xin được đưa đến trại giam tại địa điểm gần Sơn
La hơn. Cơ quan thi hành án của chính quyền thuộc địa Pháp dẫn hai ông về giam ở nhà
tù Thái Nguyên (
18
).
Năm 1970-1971 khi viết cuốn sách: Nhân dân các dân tộc Tây Bắc chống thực
dân Pháp. Tập I (1858-1930), Ban dân tộc Khu uỷ Tây Bắc xuất bản 1971, tôi mới thu
được nguồn tư liệu theo chuyện kể lại của ông Cầm Văn Chung, con trai của cụ Cầm Văn
Tứ lúc đó đã ngoài 70 tuổi. Ông Chung kể: "… Cha tôi (tức Cầm Văn Tứ - TG) bị Pháp
bắt đi giam ở nhà tù Thái Nguyên. Năm 1917 đã tham gia cuộc khởi nghĩa do Đội Cấn
chỉ huy và đã không còn trở lại với gia đình, quê hương nữa " (
19
). Vì chưa thật chắc
nên 1970-1971 khi viết, tôi đã đưa phần chú thích ở trang 66 của cuốn sách.
Tháng 7 năm 1987, tôi có trong tay tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 (292) (V-VII)
1997 của Viện Sử học thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia [nay là
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (Vietnamese Academy of Social sciences)]; trong đó có
bài viết của PGS.PTS. (nay là TS) Dương Kinh Quốc nhan đề: Về cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên năm 1917 (trang 7-32)
Trước hết trong bài viết PGS.TS. Dương Kinh Quốc đã công bố hai bản án
dịch từ
nguyên bản tiếng Pháp của Lường Văn Hôm và Cầm Văn Tứ. Ở phần chú thích nguồn tư liệu,
Dương Kinh Quốc nói, các bản án đều “lưu tại: kho lưu trữ hải ngoại (Archives d’Outre-Mer-


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status