tìm hiểu vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn trường hợp nghiên cứu tại xã châu cường, huyện quỳ hợp, tỉnh nghệ an - Pdf 13

Mục lục
Trang
Mục lục 1
Phần 1: Đặt vấn đề 8
Phần 2: Tổng quan nghiên cứu 10
Phần 3: Nội dung và phương pháp nghiên cứu 17
Phần 4: Kết quả nghiên cứu 19
Bảng 4.1: Tình hình dân số và lao động xã Châu Cường 19
Bảng 4.2: Tình hình sử dụng đất của xã Châu Cường 20
Bảng 4.3: Giá trị sản xuất các lĩnh vực kinh tế của xã Châu Cường 22
Bảng 4.4: Diện tích năng suất và sản lượng một số cây lương thực và cây lấy
củ của xã năm 2010 23
Bảng 4.5: Số lượng đàn vật nuôi của xã qua các năm 24
Bảng 4.6: Các loại hình tổ chức xã hội dân sự xã Châu Cường 25
Bảng 4.7: Chức năng của các tổ chức xã hội dân sự 28
Tổ chức xã hội dân sự 28
Chức năng 28
Cầu nối 28
Cung cấp dịch vụ kỹ thuật 28
Cung cấp dịch vụ công 28
Phát huy nguồn lực, bảo tồn các giá trị 28
Thông tin – tư vấn 28
Giám sát, phản biện 28
Hoạch định chủ trương, chính sách 28
Nâng cao năng lực 28
+++ 28
28
+ 28
+ 28
+ 28
+++ 28

++ 28
+ 28
+ 28
+ 28
2
++ 28
+++ 28
28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+++ 28
28
++ 28
++ 28
+ 28
+ 28
28
28
+++ 28
28
++ 28
+ 28
28
+ 28
28
28

28
28
28
++ 28
+++ 28
28
+++ 28
+ 28
28
28
4
+ 28
++ 28
+++ 28
28
+++ 28
+ 28
28
28
+ 28
+ 28
28
+++ 28
+++ 28
28
28
28
28
+++ 28
28

đề kinh tế - xã hội địa phương 43
Bảng 4.12: Tỷ lệ thu hút hội viên của các tổ chức xã hội dân sự 50
Bảng 4.13: Người dân tham gia các tổ chức xã hội dân sự 51
Bảng 4.14: Lý do người dân tham gia các tổ chức xã hội dân sự 51
Bảng 4.15: Tính chủ động của các tổ chức xã hội dân sự 53
Bảng 4.16: Tính hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự 54
Bảng 4.17: Sự hài lòng của cán bộ quản lý về các tổ chức xã hội dân sự 56
Bảng 4.18: Quan niệm của người dân về hiệu quả hoạt động của các tổ chức
xã hội dân sự 58
Bảng 4.19: Lý do người dân tin tưởng vào năng lực giải quyết vấn đề của các
tổ chức xã hội dân sự 59
Bảng 4.20: Lý do hội viên hài lòng với các tổ chức xã hội dân sự 60
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2011) 60
Bảng 4.21: Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò và hiệu quả trong hoạt động của
các tổ chức xã hội dân sự 62
Phần 5: Kết luận và Khuyến nghị 66
6
Danh mục tài liệu tham khảo 68
Phụ lục 69
7
Phần 1: Đặt vấn đề
1.1. Vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở các vùng nông thôn
của nước ta, sự đóng góp tích cực từ nhiều nguồn lực khác nhau cho những
mục tiêu khác nhau, mang lại nhiều lợi ích đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng
nảy sinh những vấn đề bất cập khó tránh khỏi. Đặc biệt các vấn đề này gây
nên nhiều bức xúc cũng như nảy sinh thêm các vấn đề mới, là những trở ngại
cho tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong nông thôn. Các
nguồn lực cho phát triển và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội là có hạn,
nguồn lực Nhà nước phải dành phần nhiều cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế,

chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn nghiên cứu.
9
Phần 2: Tổng quan nghiên cứu
2.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1. Khái niệm tổ chức xã hội dân sự
Thế nào là một tổ chức xã hội dân sự? Nhằm làm rõ khái niệm này,
trước hết nên tìm hiểu khái niệm về xã hội dân sự.
Theo Civicus (Liên hội Quốc tế Các Tổ chức Xã hội dân sự) định nghĩa
thì “Xã hội dân sự là lãnh vực, ở bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường,
nơi người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung” [2].
Nếu theo định nghĩa của Civicus thì những nhóm, hội đoàn nhỏ hoạt
động vì mục đích từ thiện nhân đạo hay phát triển cũng đều thuộc xã hội dân
sự. Các tổ chức này hoạt động trong khuôn khổ luật pháp của nhà nước nhưng
có các cơ chế tự quản lý, tự xử lý thông qua các mối liên kết đa dạng và linh
hoạt. Các cơ chế tự quản này thường nảy sinh tùy theo niềm tin cậy, sự thân
thuộc quen biết, và cả những lề thói qua lại giữa các bên đối tác trong từng
tình huống cụ thể.
Theo Lê Ngọc Hùng, 2008: “Xã hội dân sự là tổng thể các mối quan hệ
giữa con người và xã hội, trong đó các cá nhân thông qua các mối liên kết của
mình tạo thành nhóm, tổ chức để thỏa mãn những nhu cầu mà nhà nước, thị
trường, gia đình hay cá nhân riêng lẻ có thể đáp ứng được” [7].
Theo Đặng Ngọc Dinh, 2006: “Xã hội dân sự bao gồm các tổ chức xã
hội nằm ngoài nhà nước, nằm ngoài hoạt động của các doanh nghiệp, nằm
ngoài gia đình để liên kết với nhau trong hoạt động vì mục đích chung” [4].
Nếu dựa trên yếu tố quan trọng nhất của xã hội dân sự chính là sự tự
nguyện của mỗi công dân thì xã hội dân sự được hiểu là: “Xã hội dân sự ở
đây được hiểu là một mảng của đời sống xã hội có tổ chức, mang tính tự
nguyện, tự tái tạo, (hầu như) tự tài trợ, độc lập với nhà nước, và gắn bó với
nhau bằng một trật tự pháp lý hay một số nguyên tắc chung. Xã hội dân sự là
một xã hội mà ở đó người dân biết tự lo lấy cho mình rất nhiều chuyện, biết tự

đời sống chứ không phải là người giải quyết tất cả các vấn đề của đời sống.
Xã hội dân sự là một xã hội tự quản lấy mình và đến một mức độ mà nó
không có khả năng để tự quản nữa thì phần còn lại đó rơi vào nhà nước
chuyên nghiệp. Hay nói cách khác, nhà nước chuyên nghiệp là bộ phận nối
dài của xã hội dân sự để giải quyết những công việc mà bản thân xã hội
không tự giải quyết được [12].
Xã hội dân sự ra đời trước hết là do kinh tế thị trường đòi hỏi quyền tự
do kinh doanh và được bảo vệ lợi ích của mình. Nhưng thị trường chỉ lo kinh
tế, lo lợi nhuận là chính, ít quan tâm và không lo được các vấn đề xã hội, lợi
ích dân sinh. Đồng thời, nhà nước cũng chỉ lo được những vấn đề lớn, nguồn
lực, năng lực cũng có hạn, nên các tổ chức xã hội do dân lập ra phải tự lo lấy
và giải quyết các vấn đề của mình. Xã hội tự nó cũng có nhu cầu tự tổ chức,
tự thể hiện và tự vệ. Hơn nữa nhờ có xã hội dân sự đó mà tránh được phần
nào sự lạm quyền từ cả kinh tế thị trường và nhà nước. Các tổ chức xã hội ở
nước ta trước đây, có khi xuất hiện còn do các nhu cầu vận động nhân dân
chống ngoại xâm, hay tự vệ. Hiến pháp năm 1946 cũng cho phép nhân dân tự
lập Hội. Nhưng ngày nay với nền kinh tế mới, nhà nước pháp quyền nên dân
chủ của nhân dân, thì dân tự do lập Hội, để thể hiện và bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình. Xã hội dân sự vì vậy tạo nên một mạng lưới tổ chức rộng
khắp và đa tầng [6].
Đúng là xã hội dân sự không chỉ bị chi phối bởi kinh tế thị trường, mà
cả nhà nước pháp quyền. Nhưng chưa đủ, mà nó còn bị chi phối khá mạnh về
11
truyền thống văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói riêng, và phụ thuộc
vào cả sự tương quan lực lượng xã hội của nó [7].
- Đặc trưng (Tự nguyện, cộng đồng tự tổ chức, phi lợi nhuận, phi chính
phủ, không bị chi phối trực tiếp của đảng cầm quyền).
Chức năng
Chức năng của xã hội dân sự bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền
dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách

và các đoàn thể nhân dân được quan tâm và đạt nhiều kết quả. Hệ thống chính
12
trị không ngừng được củng cố, công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ
được quan tâm.
Tuy vậy, so với cả nước, Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, cơ cấu kinh
tế thiên về nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng 65 – 70%
mức bình quân của cả nước [13]. Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chuyển
dịch kinh tế còn chậm. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn yếu và chưa đồng
bộ.
2.4. Các nghiên cứu về các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam
Xã hội dân sự ở Việt Nam là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của
không chỉ các nhà nghiên cứu lý luận trong nước mà còn cả trên thế giới.
Trong đó nghiên cứu về cấu trúc các tổ chức xã hội dân sự nổi bật là công
trình nghiên cứu của Dự án CIVICUS CSI-SAT về “Đánh giá ban đầu về xã
hội dân sự tại Việt Nam” trong năm 2006. Đây là công trình có quy mô quốc
gia, cho chúng ta một cái nhìn toàn cảnh về hiện trạng xã hội dân sự ở Việt
Nam hiện nay. Để đánh giá hiện trạng của Xã hội dân sự tại một nước nào đó
dựa trên phương pháp tiếp cận toàn diện và đánh giá sự tham gia của các bên
liên quan, nghiên cứu chỉ số xã hội dân sự xem xét 4 bình diện chủ chốt của
Xã hội dân sự, đó là: Cấu trúc; Môi trường bên ngoài; Các giá trị; và Tác
động lên xã hội nói chung [3]. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ tập trung vào mô
tả và đánh giá cấu trúc xã hội dân sự mà còn ít đề cập đến vai trò của xã hội
dân sự ở Việt Nam. Vì vậy mà trong nghiên cứu này, ngoài đánh giá về hiện
trạng xã hội dân sự còn tập trung vào đánh giá vai trò của các tổ chức xã hội
dân sự trong giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu về cấu trúc và vai trò có công trình của Nguyễn Duy Phú
cùng các cộng sự cho ra cuốn sách “Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc”
trong năm 2008. Nội dung chủ yếu đề cấp đến vai trò và sự phát triển của xã
hội dân sự trong bối cảnh thế giới; phân tích tình hình đặc điểm xã hội dân sự
việt nam dừa trên 4 bình diện chủ chốt của xã hội dân sự và sự phát triển của

trong việc liên kết tự nguyện các cá nhân dựa trên sự tin cậy lẫn nhau với mục
đích giúp đỡ, trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ tâm tư, tình cảm, thể hiện nhu cầu
vật chất và tinh thần, bảo vệ lợi ích…Nhu cầu liên kết giữa các cá nhân gắn
liền với quyền con người, quyền công dân, sự phát triển ý thức và năng lực tự
quản cộng đồng trong đó có ý thức tự quản của mỗi công dân, mỗi thành viên
xã hội [9, 12].
- Các tổ chức xã hội dân sự góp phần xây dựng môi trường thực hành
dân chủ và hoàn thiện nhà nước pháp quyền; tham gia trực tiếp vào việc giám
sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy công quyền và hành vi của đội ngũ công
chức nhà nước, góp phần ngăn chặn và khắc phục tình trạng tổ chức và cá
nhân được trao quyền quản lý nhà nước trở nên quan liêu và tha hóa. Trong
nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội được thực hiện
thông qua việc luật pháp hóa quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền giám
sát, phản biện của các đoàn thể nhân dân, các hội đối với chủ trương, chính
sách và văn bản pháp luật của nhà nước [9, 12].
- Các tổ chức xã hội dân sự thức đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, góp phần khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết của thị trường. Các
tổ chức xã hội dân sự tập hợp các pháp nhân và thể nhân kinh tế nhằm phối
hợp sức mạnh kinh doanh, tự dàn xếp thoả thuận cùng nhau hành động để
khai thác và phát huy lợi thế của các cá nhân và tổ chức, tăng cường khả năng
cạnh tranh, bảo vệ hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, thương lượng
giải quyết tranh chấp thương mại; nắm bắt nhu cầu tiêu dùng của xã hội, bảo
14
vệ người tiêu dùng, thẩm định, phản biện xã hội đối với chính sách kinh tế
của nhà nước [9, 13].
Đồng thời các hiệp hội đã đại diện cho các doanh nghiệp có ý kiến
đóng góp tư vấn và phản biện đối với các chủ chương chính sách, chiến lược
phát triển ngành nghề để Chính phủ và chính quyền địa phương đưa ra những
quyết sách sát thực và hiệu quả hơn.
- Các tổ chức xã hội dân sự tham gia chủ động, tích cực và tự nguyện

hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước [9, 12].
Trong điều kiện hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo và
đóng vai trò hạt nhân, dễ xảy ra nguy cơ đội ngũ cầm quyền sẽ xa dân, quan
15
liêu, lạm quyền… Vì vậy, các tổ chức chính trị – xã hội là những thể chế thích
hợp để vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa tránh được mọi nguy cơ nói
trên, tức là thực hiện sự giám sát và phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà
nước. Với ý nghĩa đó, các tổ chức chính trị – xã hội không chỉ có chức năng
tập hợp, động viên quần chúng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên,
hội viên, mà còn có chức năng thực hành dân chủ, giám sát, phản biện xã hội
nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh được những sai
lầm, khuyết điểm do tình trạng quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên.
- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm mục đích phối
hợp sức mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp
phần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tư vấn thẩm định,
phản biện xã hội đối với các chính sách, công trình kinh tế của nhà nước, bảo
vệ hàng hoá, chất lượng sản phẩm; tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường,
bảo vệ người tiêu dùng, thương lượng giải quyết các tranh chấp thương mại.
Vụ kiện áp đặt Luật chống bán phá giá cá Basa và cá da trơn, bán tôm vào thị
trường Hoa Kỳ… của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là ví
dụ điển hình. Đồng thời, nhiều tổ chức này đã bước đầu đảm nhiệm tương đối
có hiệu quả việc cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội, góp phần thực
hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước [10].
- Các hội, tổ chức phi chính phủ đã góp phần khai thác mọi nguồn lực
để phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; vận động hội viên tích cực tham gia
vào nhiệm vụ xây dựng xã hội, phát triển kinh tế; phát huy tính năng động,
tính tích cực xã hội của mỗi công dân; góp phần cùng Nhà nước giải quyết
những khó khăn về kinh tế - xã hội do chiến tranh, do nền kinh tế chậm phát
triển cũng như do sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường gây nên [10].

vào các tổ chức xã hội dân sự, vị trí và chức năng của các tổ chức xã hội dân
sự, quan niệm của cán bộ và hội viên về hiệu quả trong giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội địa phương, thuận lợi và khó khăn của quá trình đó.
4) Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò, hiệu quả hoạt động trong phát
triển kinh tế - xã hội tại xã Châu Cường bao gồm: các yếu tố bên trong và yếu
tố bên ngoài của tổ chức.
3.3. Thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập số liệu thứ cấp đã được công bố từ cấp huyện và xã thông qua
báo cáo kinh tế xã hội, báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng, báo cáo
tổng kết và hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự qua các năm 2008 - 2010,
các văn bản có liên quan khác như: quy định, quy chế về sự tham gia của các
tổ chức xã hội dân sự, chính sách và định hướng của các cấp về xã hội dân sự
nông thôn…
17
3.4. Thu thập số liệu sơ cấp
Các số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách sử dụng các công cụ khác
nhau như phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, phỏng vấn hộ. Phỏng vấn sâu được
tiến tiến hành với Phó chủ tịch xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã,
Trưởng/Phó các tổ chức xã hội dân sự. Nội dung phỏng vấn sâu bao gồm: lĩnh
vực, loại hình hoạt động, tiềm năng và nguồn lực của tổ chức; chức năng, vai
trò của tổ chức trong giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở địa phương,
thuận lợi, khó khăn, nhân tố ảnh hưởng đến chức năng và hiệu quả trong quá
trình đó.
Từ những thông tin trong phỏng vấn sâu tiến hành xây dựng nội dung,
phương pháp và tiến hành thảo luận ở một nhóm với đại diện cán bộ xã,
Trưởng/phó một số tổ chức xã hội dân sự. Nội dung của cuộc thảo luận nhóm
này bao gồm: các vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm trong năm 2010, chức năng
và vai trò của các tổ chức xã hội dân sự, các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò và
hiệu quả hoạt động trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của các tổ chức
xã hội dân sự.

2 Số nhân khẩu Người 5055 100,0
2.1 - Nam Người 2352 46,53
2.2 - Nữ Người 2703 53,47
2.3 - Dân tộc Thái Người 4853 96,0
2.4 - Dân tộc Kinh Người 202 4,0
- Nhóm tuổi dưới 15 Người 1247 24,67
- Nhóm tuổi 15 – 60 Người 3207 63,44
- Nhóm tuổi trên 60 Người 601 11,89
3 Số lao động Người 3207 63,44
3.1 Lao động nông nghiệp Người 3000 93,55
3.2 Lao động phi nông nghiệp Người 207 6,45
4 Tốc độ gia tăng dân số % 1,26
5 Bình quân lao động/hộ Người 2,81
6 Bình quân nhân khẩu/hộ Người 4,64
(Nguồn: Số liệu thống kê UBND xã Châu Cường, 2010)
Số liệu ở bảng 4.1 cho thấy toàn xã có 1089 hộ, lực lượng lao động dồi
dào (chiếm 63,44% tổng số khẩu) trong đó lao động nông nghiệp chiếm tới
97,82% lao động của toàn xã, với bình quân nhân khẩu 4,64 người/hộ là khá
đông. Với cơ cấu dân số và lao động như vậy sẽ là gánh nặng cho phát triển
kinh tế địa phương, gây sức ép làm kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên là
điều khó tránh khỏi, đặc biệt trong điều kiện địa phương có tốc độ gia tăng
dân số tự nhiên còn khá lớn (1,26%). Nhằm hạn chế hệ quả đó chính quyền
cùng các ban, ngành, đoàn thể đang cùng nhau phối hợp cố gắng thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, giải quyết việc làm cho người lao
19
động, giáo dục, tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của cộng đồng,
bảo đảm ổn định cuộc sống cho người dân
Với đặc thù là xã thuần nông lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh vực
nông nghiệp (93,55%), tuy nhiên bình quân đất sản xuất nông nghiệp chỉ
khoảng 2,25 sào/khẩu. Nên nhiều lao động trẻ đã chủ động di cư đến các

3. Đất khác 52,8 0,63
(Nguồn: số liệu thống kê địa chính xã Châu Cường, 2010)
Châu Cường là một xã vùng sâu, vùng cao cách trung tâm thị trấn Quỳ
Hợp 8 km về phía Tây. Tổng diện tích tự nhiên là 8.373,03 ha (lớn nhất
huyện). Trong đó diện tích đất lâm nghiệp chiếm tới 97,92% so với tổng diện
20
tích đất tự nhiên, những diện tích đất sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 6,57%
với các loại cây trồng chính như lúa, ngô, rau màu các loại Mặc dù diện tích
đất tự nhiên rất lớn, đất đai màu mỡ phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển
của các loại cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị cao nhưng sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn xã chủ yếu là cây lương thực, rừng trồng chủ yếu là keo,
bạch đàn. Nhằm đảm bảo ổn định và phát triển sinh kế cho người dân, chính
quyền cùng các ban ngành, đoàn thể (Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân…) đã
tích cực xúc tiến quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tuy
nhiên quá trình này diễn ra chậm và chưa sâu sắc.
Với cơ cấu sử dụng đất như trên cho thấy sinh kế của cư dân nông
nghiệp rất đa dạng, không đơn thuần chủ yếu là lúa nước. Nét nổi bật chính là
diện tích đất lâm nghiệp rất lớn, cộng đồng người Thái từ ngàn xưa đến nay
rất coi trọng rừng, hầu hết mọi hoạt động của họ đều gắn liền với rừng. Nhận
thức được tầm quan trọng của rừng đối với cộng đồng, Nhà nước đã tiến hành
triển khai các chương trình 163/CP, 147/CP…
Ngoài diện tích đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp và phi nông
nghiệp, trên địa bàn còn khoảng 52,8 ha diện tích đất khác chủ yếu là đất núi
đá vôi không có cây. Vì vậy mà hoạt động khai thác chế biến đá trắng rất sôi
nổi góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do lợi ích kinh tế mang lại từ hoạt động
khai khoáng mà hiện trạng chiếm dụng đất đai, sử dụng đất không đúng mục
đích như chuyển từ đất núi đá có rừng sang khai thác đá ngày càng gia tăng.
Những hiện tượng này tiềm ẩm nhiều tác động xấu như ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp của hộ, gây nên các mẫu thuẫn trong công đồng do

Giá trị
sản xuất
Tỷ lệ
%
Giá trị
sản xuất
Tỷ lệ
%
Tổng giá trị sản xuất 23.661,0 100 26.271,8 100 27.900,7 100
1. Nông lâm và thủy sản 18.504,3 78,21 19.179,5 73,00 19.805,0 70,98
2.Công nghiệp và xây
dựng
2.191,0
9,26
3.178,0
12,10
3.961,7 14,20
3. Dịch vụ 2.965,70 12,53 3.914,30 14,90 4.164 14,92
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội của xã qua các năm)
Qua bảng bảng 4.3 cho thấy cơ cấu kinh tế xã đang chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng
ngành nông lâm nghiệp và thủy sản. Tuy vậy quá trình này diễn ra khá chậm,
một phần là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới làm giảm mạnh
lượng hàng xuất khẩu, giá cả các mặt hàng phục vụ sản xuất và sinh hoạt ngày
càng tăng cao, làm giảm sức mua, mức đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đặc
biệt trong năm 2009 và 2010 trên địa bàn thời tiết diễn biến phức tạp, lũ lụt,
hán hạn xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng mạnh, gây thiệt hại
nghiêm trọng về nhà ở, mùa màng làm giảm sản lượng nông sản. Trước bối
cảnh đó chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể cùng người dân chung tay
đoàn kết khắc phục nhanh chóng hậu quả thiên tai như tu sửa cầu, cống,

TT Loại cây trồng Diện tích (ha) N.suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
1 Lúa 295,6 48,5 1.433,66
2 Ngô 70,6 30,7 216,742
3 Khoai lang 17,2 83,9 144,308
4 Lạc 86,2 21,6 186,192
5 Sắn 58,9 210,3 1.238,667
(Nguồn: Số liệu thống kê văn phòng – thống kê UBND xã Châu Cường, 2010)
Số liệu ở bảng 4.4 cho thấy: Tổng diện tích gieo trồng vụ Chiêm xuân
và vụ Mùa là 528,5 ha trong đó lúa là cây lương thực chủ đạo với diện tích
gieo trồng là 295,6 ha, năng suất đạt 48,5 tạ/ha. Sau lúa là lạc, ngô và sắn
được coi là những loại cây trồng truyền thống với diện tích gieo trồng khá
cao. Không như lúa diện tích gieo trồng được giữ ổn định qua các năm, các
loại cây trồng khác có sự thay đổi về diện tích gieo trồng qua các năm. Cụ thể
là trong những năm gần đây cây sắn được nông dân ưu tiên lựa chọn, mặc dù
mỗi năm chỉ trồng và thu hoạch 1 vụ sắn nhưng do giá sắn nguyên liệu ngày
càng tăng mạnh, đầu tư ban đầu cho sắn thấp hơn so với các loại cây trồng
khác.
Trong năm 2010 năng suất cây trồng trên địa bàn chỉ ở mức trung bình
và thấp hơn so với những năm trước. Đó là trong năm người dân phải hứng
chịu 3 trận lũ lụt, và hán hán kéo dài từ cuối năm 2009 cho đến tháng 5, tháng
6 năm 2010. Ngoài ra do tác động của giá đầu vào trong nông nghiệp tăng
cao, đã làm giảm mức đầu tư cho sản xuất. Theo đó, năng suất cây trồng giảm
đi đáng kể. Nhằm khắc phục tình trạng trên chính quyền, Hội Nông dân phối
hợp với các công ty, xí nghiệp hỗ trợ cho nông dân vay giống, phân bón
23
- Tình hình chăn nuôi của xã qua các năm (2008 – 2009)
Quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong
nông nghiệp Việt Nam đang chuyển dần theo hướng tăng tỷ trọng ngành
chăn nuôi, thủy sản và giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Trong những năm
qua ngành chăn nuôi ở trên địa bàn xã càng ngày càng phát triển và

4.1.2.1. Các loại hình tổ chức xã hội dân sự ở địa phương
Cấu trúc các tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường bao
gồm 3 nhóm chính: Nhóm các tổ chức Chính trị - xã hội được thành lập cùng
với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, nhóm các Hiệp hội Nghề nghiệp
xã hội trung ương được thành lập và đi vào hoạt động vào cuối những năm
24
1990 vào đầu những năm 2000, nhóm các tổ chức dân lập được thành lập và
phát triển mạnh mẽ từ năm 2005 trở lại đây. Sự phát triển này đã làm cho cấu
trúc xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường càng ngày càng phức tạp,
phong phú và đa dạng về loại hình tổ chức. Kết quả tìm hiểu về các loại hình
tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường được thể hiện ở bảng 4.6.
Bảng 4.6: Các loại hình tổ chức xã hội dân sự xã Châu Cường
Loại tổ
chức
Tổ chức Số lượng Năm
thành lập
Quan hệ với nhà
nước
Tổ chức
chính trị -
xã hội
Mặt trận Tổ quốc 11 Ban công
tác
Đảng Cộng sản
Việt Nam
Hội Nông Dân 11 Chi hội Mặt trận Tổ quốc
Hội Phụ Nữ 11 Chi hội Mặt trận Tổ quốc
Hội Cựu chiến binh 11 Chi hội Mặt trận Tổ quốc
Công đoàn 4 cơ sở Mặt trận Tổ quốc
Đoàn Thanh niên 13 Chi Đoàn Mặt trận Tổ quốc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status