Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm nông nghiệp trong sản xuất của nông hộ tỉnh đồng tháp - Pdf 30

1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGUYỄN THỊ MINH TRÚC

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH THAM GIA BẢO HIỂM NÔNG
NGHIỆP TRONG SẢN XUẤT LÖA CỦA NÔNG
HỘ TỈNH ĐỒNG THÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Mã số ngành: 52340201


Ngành TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Mã số ngành: 52340201

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
TS. PHAN ĐÌNH KHÔI
01 - 2014 3

LỜI CẢM TẠ


Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều
kiện thuận lợi cho em học tập nghiên cứu; cảm ơn quý thầy cô khoa Kinh tế & Quản trị
kinh doanh đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu sẽ trở thành nền tảng vững
chắc cho em sau này.
Trong quá trình thu thập số liệu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
anh chị, cô chú tại các Sở, Ban ngành tỉnh Đồng Tháp như Sở Nông nghiệp & Phát triển
Nông thôn, Cục Thống kê, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư và các UBND xã.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Phan Đình Khôi đã tận tình hướng dẫn và tạo
điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
Với thời gian thực hiện đề tài trong thời gian ngắn, mặc dù có rất nhiều cố gắng
nhưng không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô,
giúp em bổ sung, hoàn thiện kiến thức hơn.
Cuối lời, em xin kính chúc quý thầy cô nhiều sức khỏe, luôn nhiệt huyết giảng
dạy để tiếp tục truyền đạt kiến thức cho chúng em và thế hệ mai sau.


Ngày 15 tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
NGUYỄN THỊ MINH TRÖC

6

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN




7

DANH MỤC BIỂU BẢNG
Trang

Bảng 2.1: Tổng hợp các biến và dấu kỳ vọng các hệ số trong mô hình 17
Bảng 4.1: Thông tin cơ bản của nông hộ 29
Bảng 4.2: Trình độ học vấn của chủ hộ tỉnh Đồng Tháp 31
Bảng 4.3: Kết quả sản xuất năm 2013 33
Bảng 4.4: Thu nhập và tiết kiệm của nông hộ 34
Bảng 4.5: Lý do không vay vốn của nông hộ 36
Bảng 4.6: Kết quả ước lượng của mô hình 42

DANH MỤC HÌNH

8

MỤC LỤC
Trang

Chƣơng 1: GIỚI THIỆU 1
1.1 Lý do chọn đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Phạm vi nghiên cứu 2
1.4 Cấu trúc bài viết 3
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
2.1. Cơ sở lý luận 4
2.2 Lược khảo tài liệu 12
2.3 Phương pháp nghiên cứu 15
Chƣơng 3: GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 21
3.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 21
3.2. Tình hình tham gia Bảo hiểm nông nghiệp trong sản xuất láu của nông hộ
tỉnh Đồng Tháp 26
Chƣơng 4: PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH THAM GIA BHNN TRONG SẢN XUẤT LÖA
CỦA NÔNG HỘ TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP 29
4.1. Đặc điểm nông hộ tỉnh Đồng Tháp 29
4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định Bảo hiểm nông nghiệp trong
sản xuất lúa của nông hộ tỉnh Đồng Tháp 40

còn chịu nhiều rủi ro, thiệt thòi, đời sống chậm cải thiện, khó đạt mục tiêu xây
dựng nông thôn mới. Khó khăn lớn nhất của nông dân ĐBSCL là sản xuất và thu
hoạch còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Vào mùa mưa vùng trũng bị ngập
úng, nhiều lúa non bị chết, mùa khô nhiều nơi khô hạn và bị nước mặn xâm nhập,
độc canh cây lúa còn phổ biến, sâu bệnh đe dọa thường xuyên trên đồng ruộng
Ðiều kiện phơi sấy không bảo đảm cho nên nông dân phải chịu rất nhiều rủi ro
khi thu hoạch các vụ lúa trong mùa mưa. Những biến đổi khí hậu càng làm cho
nông dân vùng ĐBSCL khó khăn hơn trong sản xuất và thu hoạch lúa. Việc tiêu
thụ lúa sau thu hoạch lại hoàn toàn phụ thuộc vào giá cả trên thị trường, người
10

nông dân không có quyền quyết định giá bán và tình trạng được mùa rớt giá của
người nông dân kéo dài từ vụ này sang vụ khác, năm này qua năm khác. Chính vì
thế, với mục tiêu hình thành trợ lực cho sản xuất nông nghiệp phát triển bền
vững, hỗ trợ cho quá trình xây dựng nông thôn mới, Bảo hiểm nông nghiệp
(BHNN) ra đời là hình thức giúp người nông dân giảm bớt khó khăn khi xảy ra
thiên tai, dịch bệnh.
Bảo hiểm nông nghiệp là một trong những chính sách hỗ trợ cho người sản
xuất lúa nhằm chủ động khắc phục, bù đắp thiệt hại do hậu quả của thiên tai, dịch
bệnh gây ra, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, an ninh lương thực. Tuy nhiên,
việc tham gia bảo hiểm nông nghiệp cho cây lúa của các nông hộ tại tỉnh Đồng
Tháp vẫn chưa thật sự đạt kết quả như mong đợi. Các hộ nông dân vẫn còn e ngại
khi tham gia loại hình bảo hiểm này, tỷ lệ hộ nông dân bình thường tham gia bảo
hiểm rất thấp, chủ yếu vẫn là các hộ nghèo và cận nghèo tham gia. Do đó, đề tài
”Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm nông
nghiệp trong sản xuất lúa của nông hộ tại tỉnh Đồng Tháp” là cần thiết để tìm
hiểu và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia Bảo hiểm nông
nghiệp cho cây lúa của nông hộ, đồng thời đề ra các giải pháp cụ thể để chương
trình thí điểm BHNN thực sự đi vào cuộc sống của mọi nhà nông.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

bày theo 5 chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
Chương 4: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia BHNN
trong sản xuất lúa của nông hộ tỉnh Đồng Tháp
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
12

CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Các vấn đề liên quan đến bảo hiểm nông nghiệp
2.1.1.1 Sơ lược về bảo hiểm nông nghiệp
Nông nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi ro, không giống như bất kỳ ngành
công nghiệp nào, bởi nông nghiệp phải chịu sự thay đổi của thiên nhiên ảnh
hưởng đến năng suất cây trồng. Trong các nước đang phát triển, rủi ro về năng
suất là phổ biến do đa số những người nông dân nghèo thì có rất ít phương tiện
hiện đại, nguồn lực kinh tế bị hạn chế, nên họ bị ảnh hưởng rất nhiều khi xảy ra
mất mùa, năng suất thấp. Bảo hiểm nông nghiệp là một công cụ cũng như một cơ
chế hiệu quả hơn để đối phó với các vấn đề của nền nông nghiệp, đồng thời bảo
hiểm nông nghiệp làm giảm các chi phí trực tiếp cũng như gián tiếp cho nền kinh
tế quốc dân (Jain, 2004).
Trong bài nghiên cứu Mức phí sẵn lòng trả cho bảo hiểm giá lúa của các
nông hộ ở Cần Thơ của Phạm Lê Thông (2013), tác giả chỉ ra rằng nông dân
thường phải đương đầu với những rủi ro làm giảm năng suất và thu nhập nên
nông dân phảm áp dụng những chiến lược để đối phó với những rủi ro này.
Những chiến lược này rất đa dạng và BHNN là công cụ thị trường quan trọng mà
nông dân thường sử dụng để bảo vệ năng suất và doanh thu khỏi những rủi ro, từ

vực và Bảo hiểm chỉ số thời tiết. Nhóm bảo hiểm này hình thành nhămg khắc
phục các nhược điểm của nhóm bảo hiểm truyền thống vì tránh được rủi ro đạo
đức, có thể áp dụng cho các nguy cơ thảm họa ảnh hưởng trên diện tích rộng lớn,
thông tin minh bạch, khách quan (giải quyết dựa vào dữ liệu khí tượng MET) nên
chi phí giám định thấp và dễ dàng để tái bảo hiểm. Nhưng nhược điểm của nhóm
này là các dữ liệu về lịch sử năng suất của địa phương thường không có sẵn và
không đáng tin cậy; công việc thiết lập các thước đo chỉ số là kỹ thuật phức tạp
và cần cơ sở dữ liệu khí tượng, nông học, mô hình canh tác tương đối chuẩn.
Còn theo Nguyễn Quốc Nghi (2011) bảo hiểm nông nghiệp là công cụ tài
chính cần thiết, góp phần quan trọng duy trì sự phát triển ổn định của sản xuất
nông nghiệp. Ở Việt Nam, hiện nay, bảo hiểm nông nghiệp có ba dòng sản phẩm
chính là:
14

- Bảo hiểm truyền thống: Tính trên giá trị thu hoạch của từng cây trồng, vật
nuôi, thiệt hại bao nhiêu thì công ty bảo hiểm sẽ trả cho nông dân bấy nhiêu;
- Bảo hiểm theo chỉ số thời tiết: Thực hiện bảo hiểm theo chỉ số lũ lụt hoặc
chỉ số khô hạn;
- Bảo hiểm theo chỉ số sản lượng: Căn cứ vào phần chênh lệch giữa sản
lượng trên lý thuyết và sản lượng thu hoạch thực tế để bồi thường.
2.1.1.2 Giới thiệu Chương trình thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp
Vùng ĐBSCL còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển nông nghiệp, ảnh
hưởng đến đời sống nhân dân, nhất là nông dân, bởi với gần một nửa diện tích bị
ngập lũ từ 3-4 tháng mỗi năm, cùng với thiên tai, dịch bệnh trên cây lúa, thủy sản
xảy ra hàng năm,…
Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 315/QĐ-TTg
ngày 01-3-2011 thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011-2013
đối với 7 tỉnh vùng ĐBSCL. Trong đó, thực hiện bảo hiểm đối với cây lúa tại 2
địa phương là An Giang và Đồng Tháp, thực hiện bảo hiểm đối với nuôi trồng
thủy sản cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng tại các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng,

trung. Diễn biến thời tiết khí hậu, thiên tai, dịch bệnh thời gian qua rất phức tạp,
tình hình giá cả thị trường, vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi nhiều biến
động làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai thí điểm bảo hiểm nông
nghiệp. Nhiều nơi người dân chưa mặn mà với việc việc tham gia bảo hiểm cây
trồng vật nuôi hoặc một số hộ dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp còn tham gia
mang tính chất thăm dò, thậm trí có trường hợp lựa chọn đối tượng được bảo
hiểm có rủi ro cao để tham gia.
Định hướng công việc trong thời gian tới mà Ban chỉ đạo BHNN Trung
ương đưa ra để các tỉnh thành triển khai là tiếp tục nghiên cứu đề xuất các chính
sách cho những năm sau về bảo hiểm nông nghiệp. Rà soát, ban hành các quy
trình trồng lúa, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản cho phù hợp với đặc điểm sản
xuất nông nghiệp tại địa phương. Tăng cường các hình thức tuyên truyền để nâng
cao nhận thức cho người dân về bảo hiểm nông nghiệp để nâng cao số hộ dân
tham gia đợt bảo hiểm thí điểm này. Đồng thời tiếp tục tổ chức triển khai ký kết
hợp đồng bảo hiểm cho người dân đảm bảo đúng đối tượng, chính sách, phạm vi,
quy tắc bảo hiểm. Thực hiện tốt việc giải quyết bồi thường, tuân thủ quy định,
16

phòng ngừa trục lợi bảo hiểm. Các hợp đồng bảo hiểm thí điểm tại các hộ dân
được ký kết đến ngày 31/12/2013 và sẽ tổng kết đánh giá trước ngày 30/6/2014.
Sau khi triển khai chương trình thí điểm, không ít các nhà nghiên cứu,
chuyên gia cũng như các nhà chuyên trách nêu ra các ý kiến về Chương trình bảo
hiểm nông nghiệp thí điểm của nước ta. Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương
Đình Huệ, “Bảo hiểm nông nghiệp là một trong những chính sách ưu tiên, nhằm
tạo ra một công cụ dự phòng rủi ro ưu việt trong điều kiện ngành nông nghiệp
nước ta nhiều thiên tai, dịch bệnh, nhưng dự phòng rủi ro của người nông dân lại
mỏng”. Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng cho rằng, “việc triển khai thí điểm bảo hiểm
trong nông nghiệp cũng còn chậm và chưa đồng đều giữa các địa phương. Số hộ
dân tham gia chưa nhiều, diện tích tham gia bảo hiểm chưa lớn, số lượng vật nuôi
thủy sản tham gia bảo hiểm chiếm tỷ lệ thấp”. Ông Christopher Coe, Giám đốc

Thứ hai, lao động: Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc
tính kinh tế nổi bật của người nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của
các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản.
Thứ ba, tiền vốn và sự tiêu dùng: Người nông dân làm công việc của gia
đình chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy, nó khác với đặc điểm
chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm chủ vốn đầu tư vào tích lũy
cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng lợi nhuận.
Tóm lại, trong kinh tế, nông hộ được quan niệm trên nhiều khía cạnh:
- Nông hộ là hộ gia đình sống ở nông thôn, tham gia trong các ngành nghề
sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản) và phi nông
nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ) ở các mức độ khác nhau.
Thành viên cùng chung sống dưới một mái nhà, mọi người đều hưởng phần thu
nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là người
lớn trong hộ gia đình.
- Nông hộ là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông thôn không thể là một đơn vị kinh tế độc
lập tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ thống kinh tế lớn
hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức cao của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thì
các hộ nông thôn càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn
không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với
các hộ ở vùng nông thôn nước ta trong tình hình hiện nay.
Nông hộ được phân loại dựa vào các tiêu chí sau:
18

- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động gồm có:
+ Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường.
Loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, đó là việc sản xuất các sản
phẩm cần thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động
trong nông hộ phải hoạt động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để

những khả năng và tiềm lực của hộ nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế quốc dân.
Nông hộ là tế bào kinh tế - xã hội, là hình thức tổ chức cơ sở của nông
nghiệp ở nông thôn đã tồn tại từ lâu đời ở các nước nông nghiệp. Nông hộ bao
gồm chủ yếu cha mẹ và con cái, có hộ còn có cả ông bà và cháu chắt.
Các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau chặt chẽ trước tiên bằng
quan hệ hôn nhân và huyết thống. Về kinh tế các thành viên trong nông hộ gắn
với nhau trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ quản lý và quan hệ
phân phối sản phẩm. Các thành viên trong nông hộ có chung mục tiêu và lợi ích
là lao động nhằm đáp ứng nhu cầu và thoát khỏi đói nghèo, phát triển kinh tế để
ngày càng giàu có.
Trong mỗi nông hộ thường cha hay mẹ là chủ hộ, vừa là người tổ chức phân
công lao động vừa trực tiếp lao động. Các thành viên trong gia đình cùng lao
động, gần gũi nhau, hiểu nhau về khả năng, đặc điểm của mỗi người nên tạo điều
kiện cho việc phân công hợp tác được hợp lý.
Kinh tế hộ gia đình phần lớn sản xuất với qui mô nhỏ, tự cấp, tự túc, do
ruộng đất giao cho các hộ manh mún, bình quân ruộng đất trên đầu người thấp,
chưa thích ứng với kinh tế thị trường. Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của
người lao động thấp, việc tổ chức sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm nên chất lượng sản xuất, kinh doanh chưa cao và thiếu
bền vững. Chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ gia đình chưa cao, chủ yếu
dưới dạng thô, tiêu thụ khó khăn, chưa nắm bắt được thị trường, nên còn thụ
động, hiệu quả thấp.
Thách thức khác đối với nông dân nước ta nói chung và kinh tế hộ nói riêng
trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là chênh lệch lớn về
năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Bên cạnh đó, hộ
nông dân thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của quy luật
thị trường. Trong kinh tế thị trường, việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất
hàng hóa lớn đã khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông
nghiệp mấy năm gần đây cũng đang khó khăn không kém. Đã thế, thị trường đầu

nghiệp ở nước ta của Lê Khương Ninh (2013) cũng chỉ ra các nguyên nhân làm
hạn chế sự phát triển của thị trường bảo hiểm nông nghiệp. Ba nguyên nhân
chính khiến thị trường bảo hiểm nông nghiệp kém phát triển là rủi ro hệ thống
trong sản xuất nông nghiệp, thông tin bất đối xứng dẫn đến hiện tượng lựa chọn
sai lầm, động cơ lệch lạc của đối tượng được bảo hiểm (nông hộ) và trợ cấp của
21

Chính phủ dẫn đến tâm lý ỷ lại, làm cho động cơ của nông hộ càng trở nên lệch
lạc hơn.
Bên cạnh các phân tích của hai tác giả trên, bài nghiên cứu Agricuture and
rural development discussion paper của tác giả Mahul (2011) có cách nhìn rộng
hơn và khái quát hơn về vấn đề hiệu quả của bảo hiểm nông nghiệp. Trong bài
viết, tác giả đưa ra một số bài học về bảo hiểm cây trồng ở các nước phát triển.
Đầu tiên, chính sách bảo hiểm MPCI (Multiple Peril Crop Insurance) không có
lợi thế trở thành một chính sách chuẩn vì không có sự phân biệt giữa các loại cây
trồng được bảo hiểm, có vấn đề lớn về rủi ro đạo đức, chi phí hoạt động cao vì
cần nhiều trợ cấp. Tuy nhiên, sản phẩm bảo hiểm theo chỉ số năng suất phân theo
khu vực lại là một sản phẩm tương đối tốt hơn, mặc dù không phổ biến. Loại
hình bảo hiểm theo chỉ số thời tiết là một phát triển mới cho các ứng dụng nông
nghiệp. Nhưng loại hình bảo hiểm theo chỉ số không phổ biến trong các nước có
thu nhập cao và bị chi phối bởi thị trường. Một bài học mà tác giả đưa ra liên
quan đến sự can thiệp của chính phủ. Mức độ trợ cấp của chính phủ càng cao thì
càng không bền vững trong tình hình tài khóa hạn chế của nền kinh tế. Cuối
cùng, sự thành công hay thất bại của các chương tình bảo hiểm cây trồng đều có
liên quan đến nền kinh tế - chính trị của đất nước, tình hình phát triển nông
nghiệp, sự phức tạp của các rủi ro gây thiệt hại và năng lực quản lý của tổ chức
bảo hiểm.
Còn về vấn đề yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm nông
nghiệp của nông dân, nhóm tác giả J.Qulggin, G.Kafwgiannis và J.Stanton
(1993) sử dụng mô hình sản xuất Cobb - Douglas để phân tích sự ảnh hưởng của

chính phủ. Vấn đề lớn còn lại được tác giả làm rõ thông qua câu hỏi “Các yếu tố
nào quan trọng ảnh hưởng đến quyết định mua bảo hiểm ?”. Qua khảo sát cho
thấy đáp viên cho rằng giá của hợp đồng bảo hiểm quan trọng hơn so với xác
suất nhận được một khoản tiền thanh toán. Các yếu tố như trợ cấp chính phủ,
diễn biến thời tiết cũng được quan tâm nhiều.
Còn trong bài nghiên cứu Mức phí sẵn lòng trả cho bảo hiểm giá lúa của
các nông hộ ở Cần Thơ của Phạm Lê Thông (2013) đã chỉ ra các yếu tố ảnh
hưởng đến xác suất tham gia chương trình bảo hiểm được đề nghị. Khả năng
tham gia của các nông hộ phụ thuộc chủ yếu vào mức phí được đề nghị; mức phí
này càng cao thì khả năng tham gia càng thấp. Ngoài ra, diện tích và kinh nghiệm
trồng lúa của nông dân là hai yếu tố quan trọng quyết định đến việc tham gia bảo
hiểm của họ.
23

Tóm lại, trong bài nghiên cứu này cần làm rõ các vấn đề như sau: loại hình
bảo hiểm nào đang chiếm tỷ lệ lớn tại địa bàn nghiên cứu; các chính sách trợ cấp
của Chính phủ có giúp người nông dân tiệp cận với bảo hiểm nông nghiệp,
nguyên nhân nào làm cho chính sách bảo hiểm nông nghiệp không đạt hiệu quả
cao và các yếu tố như quy mô canh tác, kinh nghiệm, trình độ học vấn, có thực
sự ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm nông nghiệp của nông hộ tỉnh
Đồng Tháp không?
2.3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1 Phƣơng pháp thu thập số liệu
2.3.1.1 Số liệu thứ cấp
Được thu thập từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp,
Phòng Nông nghiệp tại ba huyện thu mẫu là Tháp Mười, Châu Thành và Tân
Hồng. Thu thập thông tin từ các số liệu công bố trên các báo, tạp chí chuyên
ngành.
2.3.1.2 Số liệu sơ cấp
Đề tài thu thập số liệu sơ cấp thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp


Ta có: Y
i
= 1 nếu hộ tham gia BHNN
Y
i
= 0 nếu hộ không tham gia BHNN
Trong đó: Y là biến nhị phân, thể hiện quyết định tham gia Bảo hiểm cây
lúa của nông hộ và được đo lường bằng hai giá trị 1 và 0 (1 là nông hộ quyết định
tham gia Bảo hiểm cây lúa và 0 là nông hộ quyết định không tham gia Bảo hiểm
cây lúa). Các biến X
i
là các biến độc lập.
25

Bảng 2.1 Tổng hợp các biến và dấu kỳ vọng các hệ số trong mô hình
STT
Ký hiệu biến
Diễn giải
Kỳ vọng dấu
1
Gioitinh
Giới tính của chủ hộ (1=Nam;
0=Nữ)
+
2
Hocvan
Trình độ học vấn của chủ hộ thể
hiện qua số năm đi học (năm)
+

0=không)
+
9
Kienthuc
Hộ có được cung cấp các kiến thức
sản xuất không (1=có; 0=không)
+
10
Thunhapkhac
Các khoản thu nhập khác không
phải từ sản xuất lúa của hộ (triệu
đồng/năm)
-
11
Chitieu
Tổng chi tiêu của hộ trong năm
(triệu đồng/năm)
+
12
Sanluong
Tổng sản lượng lúa mà hộ thu được
trong năm (tấn/năm)
-
13
Tietkiem
Hộ có tỷ lệ tiết kiệm bao nhiêu so
với thu nhập (%)
-
Nguồn: Tác giả


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status