Hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo pháp luật việt nam - Pdf 31

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI VÂN ANH

HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI VÂN ANH

HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Chí Hiếu

Hµ néi - 2009


1.1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của hoạt động mua bán
doanh nghiệp trên thế giới

6

1.1.1.2. Sự ra đời và phát triển của hoạt động mua bán doanh
nghiệp tại Việt Nam

9

Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh
nghiệp

11

1.1.2.1. Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động
mua bán doanh nghiệp

11

1.1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp

16

1.1.2.

1.2.

Hợp đồng mua bán doanh nghiệp



30

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở

33

VIỆT NAM
2.1.

Các quy định về hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh

33

nghiệp
2.1.1.

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh

33

nghiệp
2.1.1.1. Chủ thể trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp phải là

33

những tổ chức, cá nhân được quyền mua bán doanh
nghiệp
2.1.1.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán doanh nghiệp


47

mua bán doanh nghiệp
2.3.

Thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp và trách
nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng mua bán doanh
nghiệp

2

57


2.3.1.

Thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp

57

2.3.2.

Trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng mua bán

59

doanh nghiệp
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG



74

3.3.2.

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp

77

3.3.3.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng

79

3.4.

Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan có thẩm
quyền về hoạt động mua bán doanh nghiệp

79

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84



4


Đối nghịch với sự chậm thích ứng của pháp luật thì thị trường M&A trong
nước đang có xu hướng phát triển bởi đầu tư theo hình thức mua bán doanh
nghiệp được xem là sự lựa chọn ưu tiên số một đối với các nhà đầu tư trong
thời điểm khủng hoảng này.
Từ những cơ sở trên, có thể nhận thấy rằng hoạt động M&A đóng vai
trò tích cực trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, khung pháp
lý về vấn đề này và những quy định riêng về hợp đồng mua bán doanh nghiệp
lại chưa hoàn thiện, gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Chính sự
cấp thiết này nên tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: "Hợp đồng mua bán
doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo các quy định của pháp luật Việt
Nam là một đề tài khá mới hiện nay. Qua tìm hiểu, hiện nay chỉ có một số bài viết
trên các trang báo điện tử về hoạt động M&A như: "FDI và M&A ở Việt Nam",
/>"M&A tại Việt Nam: con đường mới bắt đầu", />index.php?area=1&p=news&newsid=348; "Thị trường M&A ở Việt Nam",
/>"M&A tại Việt Nam - Những vấn đề cần lưu ý", ngày 06/11/2007,
VN/M-A/Kien-thuc/2007/11/3B9B1C2E; "Làn sóng
mạnh mẽ của hoạt động mua bán và sáp nhập", ngày 19/08/2007,
"Tổng quan về hoạt động
M&A", ngày 10/08/2007, />08/3B9AF9EE; "Một số quy định pháp luật về mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp", ngày 29/08/2007, />08/3B9AFC9A; "Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở
Việt Nam", />
5


Những bài viết trên các trang báo này chỉ nêu khái quát về hoạt động

Hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp hay còn được gọi tắt là
M&A luôn là một cụm từ song hành với nhau, tuy nhiên giữa chúng lại tồn tại
hai khái niệm khác nhau và cách thức tiến hành việc kết hợp hai doanh nghiệp
theo một trong hai hình thức này cũng không giống nhau. Việc nghiên cứu
các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng của hai hình thức này sẽ có nhiều
vấn đề cần được đề cập. Do vậy, với phạm vi một đề tài nghiên cứu khoa học,
tác giả sẽ không đi sâu nghiên cứu hết các vấn đề về hoạt động M&A và pháp
luật về hợp đồng của hai hình thức này mà chỉ tập trung nghiên cứu các vấn
đề pháp lý của Việt Nam về hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Trên cơ sở đó,
kết hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh để đưa ra một số giải pháp nhằm
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động M&A nói chung và pháp luật
về hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phép biện chứng
duy vật của triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên
cứu. Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng phối
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, lý
giải, lập luận những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo
các quy định pháp luật hiện hành.
- Phương pháp so sánh dùng để so sánh các loại hợp đồng gần giống
với hợp đồng mua bán doanh nghiệp để thấy rõ điểm khác của hợp đồng này
với hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
6. Những điểm mới của luận văn
Với đề tài này, luận văn đã nêu ra được những điểm mới sau đây:

7


- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng

tốc độ mà ngày nay chúng ta gọi là "nóng" của các cường quốc mới nổi như
Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản. Đây là thời kỳ được coi là chuyển giao từ chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền với sự hình thành
của các tập đoàn công nghiệp khổng lồ. Chính sự chuyển giao này đã dẫn đến
sự phát triển của hoạt động M&A, mà thông qua đó các công ty có thể thực
hiện việc thâu tóm quyền lực quản trị của mình tại doanh nghiệp cũng như
thâu tóm thị trường.
Bước sang thế kỷ XX nền kinh tế thế giới đã chứng kiến lịch sử phát
triển thăng trầm của hoạt động M&A. Đặc biệt, nền kinh tế Hoa Kỳ đã chứng
kiến 5 chu kỳ đỉnh cao (hay còn gọi là làn sóng chuyển nhượng) của hoạt động
sáp nhập công ty. Làn sóng đầu tiên về M&A trên thế giới được nhận biết một
cách rõ nét. Cuộc đại sáp nhập này (1895 - 1905) bắt nguồn từ tình trạng
khủng hoảng thừa năm 1893 khi lượng cầu suy yếu kéo theo giá tiêu dùng
giảm mạnh. Đứng trước nguy cơ này, hàng loạt công ty Mỹ đã thực hiện sáp

9


nhập ngang nhằm tạo ra những dây chuyền sản xuất khổng lồ, điển hình là vụ
PepsiCo. mua 80% cổ phần nước uống hoa quả Sandora LLC Ucraina.
Tiếp theo những năm sau đó, nền kinh tế Hoa Kỳ còn tiếp tục chứng
kiến bốn làn sóng sáp nhập nữa vào những năm 1920; nửa sau thập niên 60;
nửa đầu thập niên 80; và nửa sau thập niên 90. Các chu kỳ sáp nhập đều rơi
vào những giai đoạn kinh tế phát triển thịnh vượng và hoạt động kinh doanh,
nhất là thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh.
Làn sóng chuyển nhượng thứ hai đã diễn ra vào cuối những năm 1910
và liên tục đến những năm 1920. Những cuộc sáp nhập vào cuối những năm
1920 hầu hết được diễn ra giữa các công ty nhỏ với nhau để thoát khỏi sự độc
quyền được tạo nên trong làn sóng chuyển nhượng trước. Sự thiếu hụt nguồn
vốn cần thiết để cung cấp cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh, hiệu lực thi

nhượng này đó là sự lan truyền của nó và sự xuất hiện một số lượng lớn các
giao dịch mua bán sáp nhập có yếu tố nước ngoài.
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới tiếp tục chứng kiến một làn
sóng M&A mới, dưới những hình thức đa dạng và quy mô lớn chưa từng có.
Đợt sóng này không chỉ bó hẹp trong phạm vi các nền kinh tế phát triển mà
còn lan tỏa sang các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển như Hàn Quốc,
Singapore, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông... Sự bùng phát của hoạt
động chuyển nhượng cũng trùng khớp với sự khôi phục dần của thị trường tài
chính và nền kinh tế sau khi giảm sút được bắt đầu vào năm 2000. Các giao dịch
mua bán hiện tại dường như chú tâm đến các thỏa thuận mang tính thiện chí
hơn là thông qua việc đấu thầu có tính cạnh tranh, vì số lượng các giao dịch
thông qua đấu thầu giữa các đối thủ cạnh tranh chỉ ở mức độ khiêm tốn [26].
Qua đây có thể nhận thấy rằng, sự phát triển của hoạt động M&A
trong nền kinh tế Hoa Kỳ được xem như một mô hình kiểu mẫu. Từ sự phát
triển thăng trầm của nó mà các nước có nền kinh tế mới nổi hoặc đang phát
triển sau này xem đây như một nguyên lý đế định hướng cho hoạt động M&A
tại từng quốc gia. Và cho dù có thực hiện theo phương thức nào đi nữa, các

11


làn sóng chuyển nhượng đều phát triển theo quá trình tỷ lệ thuận với sự phát
triển của nền kinh tế và thị trường chứng khoán. Nó chịu sự tác động bởi
những thay đổi trong các quy định pháp luật của bộ máy chính quyền cũng
như thường bị cuốn theo sự thay đổi mang tính đột phá trong kỹ thuật và công
nghệ. Tuy nhiên, hiệu quả mà các hoạt động chuyển nhượng này mang lại đó
là khả năng đem lại cơ hội phục hồi nền kinh tế thường rất cao.
1.1.1.2. Sự ra đời và phát triển của hoạt động mua bán doanh
nghiệp tại Việt Nam
Nếu như trước đây cụm từ "M&A" còn khá mới mẻ so với các doanh

dào cho các hoạt động tài chính, đầu tư. Trên một sân chơi phổ biến hơn và
khung khổ pháp lý đã trở nên thuận lợi hơn, các doanh nghiệp Việt Nam ở tất
cả các thành phần kinh tế nhanh chóng làm quen và sử dụng M&A như một
công cụ chiến lược để phát triển hay cơ cấu lại doanh nghiệp của mình, đối
phó với sức nóng cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường.
Với những thương vụ mua bán "đình đám" đã nêu trên, có thể thấy
rằng các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài đã thấy được những cơ
hội lớn tại thị trường Việt Nam. Bởi lẽ, thông qua việc mua lại doanh nghiệp,
nhà đầu tư có thể tiếp cận thị trường một cách nhanh nhất dựa trên những giá
trị sẵn có của công ty bị mua, bị sáp nhập tại Việt Nam. Đồng thời, việc đầu
tư bằng hình thức này sẽ làm giá tăng giá trị của doanh nghiệp mới ở Việt
Nam bằng thương hiệu, uy tín, chất lượng, hiệu quả, công nghệ, kỹ năng, kinh
nghiệm quản trị,…
Thông qua quá trình phát triển hoạt động mua bán doanh nghiệp tại
Việt Nam đã nêu trên, có thể thấy rằng nguyên nhân cơ bản cho sự phát triển
thị trường mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam chính là sự thay đổi trong
chính sách pháp luật để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế cũng như với cam
kết gia nhập WTO. Cụ thể, việc ra đời các luật và nghị định về kinh doanh
như Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Chứng
khoán năm 2007 giúp cho thị trường tài chính nói chung và thị trường mua

13


bán doanh nghiệp nói riêng trở nên minh bạch hơn thu hút được nhiều nhà
đầu tư cả trong nước lẫn ngoài nước. Hơn nữa, hoạt động mua bán doanh
nghiệp tuy mới ở Việt Nam, tuy nhiên, tại nước ngoài, hoạt động này đã
tương đối phổ biến và các nhà đầu tư nước ngoài đã có nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động này nên họ sẽ có thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt Nam theo
hình thức này.

chiếm lĩnh được hoàn toàn một công ty khác và đóng vai trò người chủ sở hữu
mới thì việc mua lại công ty đối tác được gọi là mua lại - Acquisition [25, tr. 7-8].
Trên góc độ pháp lý, công ty bị mua lại sẽ ngừng hoạt động, công ty tiến hành
mua lại sẽ nắm giữ quyền quản lý hoạt động kinh doanh của công ty kia, tuy
nhiên cổ phiếu của công ty đi mua lại vẫn được tiếp tục giao dịch bình
thường. Một công ty có thể mua lại một công ty khác bằng tiền mặt, cổ phiếu
hay kết hợp cả hai loại trên. Một hình thức khác phổ biến trong những thương
vụ mua bán nhỏ hơn là mua tất cả tài sản của công ty bị mua. Công ty X mua
tất cả tài sản của công ty Y bằng tiền mặt đồng nghĩa với việc công ty Y chỉ
còn lại tiền mặt (và nợ, nếu như có nợ trước đó). Đương nhiên, công ty Y chỉ
là vỏ bên ngoài và cuối cùng sẽ thanh lý hoặc phải chuyển sang một lĩnh vực
kinh doanh khác.
Sáp nhập được hiểu là việc hai công ty, thường là có cùng quy mô,
thống nhất sẽ cùng tham gia hợp nhất với nhau và trở thành một doanh
nghiệp. Một vụ sáp nhập với tính chất công bằng thường được gọi là "sáp
nhập cân bằng". Với một thương vụ sáp nhập như thế, cổ phiếu cũ của hai
công ty sẽ không còn tồn tại mà công ty mới ra đời sẽ phát hành cổ phiếu thay
thế [25, tr. 7-8]. Tuy nhiên, trên thực tế những trường hợp sáp nhập cân bằng
thường hiếm khi xảy ra. Thông thường sẽ là một công ty mua lại công ty mua
lại một công ty khác với các điều khoản cho phép công ty bị mua tuyên bố
rằng hai bên sáp nhập cân bằng, mặc dù thực chất của thương vụ này là một
vụ mua lại, hay nói cách khác là thâu tóm. Và cũng có một số trường hợp một
thương vụ mua lại cũng được gọi là sáp nhập nếu Ban giám đốc, mà điển hình

15


là Giám đốc điều hành của các bên thỏa thuận sẽ hợp tác ngồi cùng nhau để
mang lại những lợi ích tối ưu cho cả hai bên. Ngược lại, nếu như tính "hữu
hảo" không tồn tại, nghĩa là khi bên bị mua lại không mong muốn bị sáp

- Góp vốn trực tiếp vào doanh nghiệp thông qua việc góp vốn điều lệ
vào công ty TNHH hoặc công ty cổ phần phát hành để tăng vốn điều lệ của
công ty cổ phần;
- Mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần đã phát hành của thành viên
hoặc cổ đông của công ty, hình thức này không giống như hình thức góp vốn
trực tiếp vào doanh nghiệp vì hình thức này không làm tăng vốn điều lệ của
doanh nghiệp nhưng có thể làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn góp/ cổ phần của
doanh nghiệp;
- Mua bán doanh nghiệp chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp tư
nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp và một số doanh nghiệp nhà nước,
bộ phận doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật về giao, bán,
khoán khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước.
Như vậy, thuật ngữ mua lại và sáp nhập là khái niệm được sử dụng để
chỉ một công ty tìm cách nắm giữ quyền kiểm soát đối với một công ty khác
thông qua thâu tóm toàn bộ hoặc một tỷ lệ số lượng cổ phần hoặc tài sản của
công ty mục tiêu đủ để có thể khống chế toàn bộ các quyết định của công ty
đó. Tỷ lệ này có thể khác nhau theo quy định cụ thể trong Luật Công ty của
từng nước. Ví dụ ở Việt Nam tỷ lệ này là 75% (đối với việc mua bán giữa các
doanh nghiệp trong nước; riêng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định của từng ngành và lộ trình cam kết
gia nhập WTO của Việt Nam), trong trường hợp Điều lệ công ty mục tiêu quy
định mức thấp hơn (tối thiểu là 65%) thì áp dụng mức đó. Sau khi kết thúc
chuyển nhượng, công ty mục tiêu sẽ chấm dứt hoạt động (bị sáp nhập) hoặc
trở thành một công ty con của công ty thâu tóm.

17


Mặc dù được quy định trong một số văn bản pháp luật, thuật ngữ
"sáp nhập và mua lại" theo quy định pháp luật Việt Nam không những

khác biệt rõ ràng. Sự khác biệt này chỉ có thể được nhận biết khi xác định
được bản chất thực sự của thương vụ chuyển nhượng đó. Và cho dù được hiểu
theo cách này hoặc cách khác thì hoạt động mua bán doanh nghiệp cũng có
những điểm chung nhất định, nó được thể hiện qua những đặc trưng cơ bản
nhất để dẫn đến sự hình thành và phát triển của hoạt động M&A trên thế giới
nói chung cũng như tại Việt Nam nói riêng.
Thứ nhất, hầu hết các vụ mua lại đều được diễn ra giữa các công ty
của các nước đang phát triển và việc điều tiết hoạt động mua bán doanh
nghiệp không chỉ bằng luật cạnh tranh mà còn điều chỉnh bằng các tiền lệ; đối
với Châu Âu lục địa thường chỉ diễn ra các vụ mua bán nhỏ, chủ yếu được
tiến hành giữa các công ty nhỏ và có tính chất gia đình.
Thứ hai, hoạt động mua bán doanh nghiệp diễn ra chủ yếu theo chu kỳ
phát triển kinh tế, mà không chịu ảnh hưởng nhiều từ những thay đổi khung
khổ pháp luật. Nếu xuất hiện nhu cầu nội tại, bằng nhiều cách thức đa dạng
khác nhau, các công ty vẫn cố gắng thực hiện mua bán doanh nghiệp để đạt
được mục đích của mình. Khi đó, luật pháp chỉ có thể ngăn cản được những
vụ sáp nhập lớn đe dọa rõ ràng đến tính cạnh tranh của thị trường.
Thứ ba, các thương vụ mua bán, sáp nhập thường chỉ tập trung vào
một số lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, công nghiệp dầu khí, dược phẩm,
công nghệ thông tin và ngành công nghiệp ôtô với sự chi phối trong những
hoàn cảnh cụ thể liên quan đến một ngành công nghiệp nhất định; ở các ngành
khác ít diễn ra các vụ mua bán, sáp nhập lớn. Ngoài ra, cùng với việc mua
bán, sáp nhập là xu hướng phân tán đầu tư, bởi ở đó các công ty tìm kiếm
những lĩnh vực có tiềm năng phát triển mạnh hơn ngoài lĩnh vực kinh doanh
chủ lực của mình.

19


Thứ tư, mục tiêu cuối cùng của tất cả các thương vụ mua bán đều nhằm

thức rõ lợi ích từ việc mua bán doanh nghiệp, trong đó có yếu tố mở rộng thị
trường và tăng cường năng lực quản lý. Mua lại doanh nghiệp luôn là một
trong những giải pháp hữu hiệu cho việc tổ chức lại công ty nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Về nguyên tắc, khi tiến hành mua bán doanh
nghiệp, giá trị của công ty mua lại bao giờ cũng lớn hơn giá trị của mỗi công
ty riêng lẻ và sau khi mua lại, cả doanh thu và lợi nhuận đều phải tăng. Từ các
công ty nhỏ lẻ kết hợp lại thành một công ty có quy mô lớn nên khả năng bị
triệt tiêu trên thương trường rất khó xảy ra; đồng thời các công ty cũng có thể
đáp ứng tốt hơn yêu cầu về nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, giảm
bớt rủi ro trong kinh doanh, tiết kiệm được chi phí cố định (quản lý, điều
hành, quảng cáo, văn phòng, tiếp thị...), tiết kiệm được chi phí đào tạo do
sắp xếp, bố trí hợp lý hơn nguồn nhân lực, tăng khả năng cạnh tranh cho
sản phẩm, tăng vốn đầu tư, có cơ hội mở rộng ngành nghề kinh doanh...
Không những thế, thông qua việc mua lại doanh nghiệp, sự kết hợp chuyên
môn và công nghệ giữa các công ty sẽ tạo ra những tập đoàn mới có tính
chuyên sâu, cung cấp những sản phẩm có chất lượng cao hơn, hiện đại hơn
và tiên tiến hơn.
Đối với nền kinh tế, hoạt động mua bán doanh nghiệp sẽ thanh lọc
những doanh nghiệp yếu, tạo nên những doanh nghiệp mới có tiềm lực mạnh
hơn, hoạt động hiệu quả hơn, và làm lành mạnh hóa nền sản xuất. Thêm vào
đó, thông qua sự phát triển của mua bán doanh nghiệp nó tạo kênh huy động
vốn đầu tư từ nước ngoài tạo khả năng phát triển kinh tế của đất nước. Cũng
xuất phát từ mục đích gia tăng giá trị và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mà hiện nay, nhiều công ty không gặp phải khó
khăn nhưng cũng tham gia vào thị trường mua bán doanh nghiệp để tìm kiếm
thêm đối tác, tạo thêm sức mạnh cho mình trong thị trường đầy cạnh tranh
hiện nay.

21



của doanh nghiệp mua lại. Điều này hoàn toàn khác với việc mua một phần
hoặc mua toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Bởi vì, mục đích của việc mua
bán tài sản doanh nghiệp chỉ nhằm hướng đến một số lượng tài sản, quyền tài
sản nhất định để có thể thực hiện quyền quản lý và kiếm soát đối với doanh
nghiệp bán tài sản. Việc bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
chỉ nhằm xác lập quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp cho bên mua. Và trong
trường hợp này, doanh nghiệp bán lại tài sản vẫn phải tiếp tục thực hiện các
trách nhiệm pháp lý và hoạt động kinh doanh với tư cách của doanh nghiệp
mình. Trong khi đó, ở hợp đồng mua bán doanh nghiệp, tư cách để tiến hành
hoạt động kinh doanh sẽ được chuyển sang cho bên mua lại doanh nghiệp,
không những thế bên mua lại còn phải nhân danh doanh nghiệp của mình để
giải quyết hàng loạt các vấn đề về pháp lý do doanh nghiệp bán để lại, với
hợp đồng mua bán tài sản doanh nghiệp, bên mua không phải thực hiện các
vấn đề này.
Thứ hai, đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp, quyền sở hữu doanh
nghiệp sẽ được chuyển từ tổ chức, cá nhân này sang tổ chức, cá nhân khác.
Bên mua lại doanh nghiệp không chỉ sở hữu đơn thuần tài sản hay cổ phiếu
của doanh nghiệp bán mà được sở hữu toàn bộ doanh nghiệp đó, bao gồm
quyền sở hữu các giá trị tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp bán và
cả tư cách chủ thể kinh doanh. Khi mua lại doanh nghiệp, bên mua sẽ kế thừa
một số quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bán để lại như việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến nhân sự, tiếp tục thực hiện các hợp đồng đã ký kết với
khách hàng hoặc được quyền hưởng các ưu đãi về đầu tư do doanh nghiệp cũ
để lại.
Ở đặc điểm này, hợp đồng mua bán doanh nghiệp hoàn toàn khác với
hợp đồng cho thuê doanh nghiệp. Ở hợp đồng mua bán doanh nghiệp, bên
mua sẽ được chuyển giao quyền sở hữu toàn bộ doanh nghiệp, nghĩa là được
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt các vấn đề liên quan đến doanh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status