Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Pdf 32

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải
quan tâm tới vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong đó xuất khẩu
đóng vai trò rất quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập
khẩu, làm cân bằng cán cân thương mại, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tốc độ tăng
trưởng nhanh trên thế giới. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới -
WTO lại càng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung,
tăng trưởng cho kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Song, nền
kinh tế sau hội nhập cũng đang phải gồng mình lên trước khủng hoảng tài
chính bắt nguồn từ chính các nước mà ta đã nghĩ rằng sẽ đóng góp nhiều nhất
cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà trong quá trình hội nhập ngày càng
sâu rộng, mà sự tác động trực tiếp là đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Bong bong bất động sản có nguyên nhân sâu xa từ tín dụng dưới chuẩn
tràn lan đã nổ như báo hiệu sự xuất hiện của khủng hoảng tại nền kinh tế lớn
mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Khủng hoảng tài chính càng làm cho suy thoái
kinh tế đã xuất hiện lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Biểu hiện
mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng ở các nước phát triển không cần phải
đề cập đến nhiều vì đã quá rõ và đó cũng là nguyên nhân khiến cho các nền
kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu cảm thấy sức nóng
của mình. Sự ảnh hưởng lớn nhất có thể dễ dàng nhận ra đó là sự tụt dốc của
ngành xuất khẩu ở các nước. Trung Quốc – quốc gia có tăng trưởng kinh tế
nóng nhất thế giới có lẽ là ví dụ nổi bật nhất, hiện đang đối mặt với khó khăn
trong xuất khẩu khi mới chỉ mấy tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu
đã giảm 20% so với cùng kỳ năm 2008. Việt Nam cũng không nằm ngoài
danh sách các nước gặp khó khăn trong vấn đề này. Các con số thống kê
những tháng đầu năm 2009 quả là đáng lo ngại. Các Doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam đang lâm vào tình cảnh khó khăn khi có quá nhiều rủi ro chờ đón
phía trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước phát triển đều giảm đi
đáng kể ngay cả với hàng hóa trong nước cũng như hàng hóa nhập khẩu.

thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy
cô, ban lãnh đạo và các anh chị trong Ban tín dụng Xuất khẩu, Ngân hàng
Phát triển Việt Nam để chuyên đề được thành công hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn: PGS.TS
Nguyễn Thị Thu Thảo – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề
này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
CHO VAY XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.1. Tổng quan về Ngân hàng phát triển
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng phát triển
Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức
tài chính phi ngân hàng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiền
tiết kiệm, tiền đầu tư của nền kinh tế và tài trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro
và tăng khả năng sinh lời. Phần lớn các trung gian tài chính hoạt động vì mục
tiêu tối đa hóa lợi ích tài chính của chủ sở hữu. Song có một số tổ chức hoạt
động với các mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới lợi ích kinh tế
xã hội nhiều hơn. Những thể chế thực hiện các mục tiêu đó có thể kể ra là:
Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng xuất nhập khẩu, Ngân hàng phát triển và
các định chế tài chính khác được gọi chung là các tổ chức tài chính phát triển.
Các tổ chức này phục vụ các loại hình doanh nghiệp, dịch vụ có tính chất ưu
đãi của Nhà nước.
Như vậy, Ngân hàng Phát triển (NHPT) thực chất là một tổ chức tín
dụng mà hoạt động chủ yếu của nó là nhằm tài trợ có hiệu quả cho các
chương trình phát triển kinh tế do Chính phủ hoạch định. Nói cách khác,
NHPT là một kênh hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách tài trợ ưu đãi.
Để thực hiện mục tiêu của Chính phủ, NHPT cũng có những đặc trưng
cơ bản chủ yếu như sau:
• Là một tổ chức tín dụng do Nhà nước thành lập và 100% vốn Nhà
nước, hoạt động của Ngân hàng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ và đặt

bảo lãnh, huy động các quỹ của Nhà nước, các khoản vay tài trợ của các tổ
chức khác, vay nước ngoài (các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính có
mục tiêu cho vay ưu đãi với các dự án phát triển như Ngân hàng thế giới,
NHPT khu vực hoặc các quỹ dành cho phát triển của Chính phủ tại các nước
phát triển), vốn và quỹ của NHPT.
Quản lý nguồn vốn với phương châm tìm kiếm và thực hiện các biện
pháp gia tăng quy mô nguồn vốn có lãi suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định là
điều kiện sống còn của NHPT. Các cách thường thực hiện là liên kết các dự
án trong nước và nhà tài trợ nước ngoài, xúc tiến thường xuyên các hoạt động
kêu gọi tài trợ, xác lập mối quan hệ giữa Chính phủ với ngân hàng trong tài
trợ dự án, phát hành trái phiếu Chính phủ… Đồng thời thực hiện quản lý chặt
chẽ kỳ hạn và chi phí vốn.
• Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển, dự án xuất khẩu hoặc hợp
đồng xuất khẩu theo đối tượng mục tiêu mà Chính phủ đặt ra trong từng thời
kỳ, kết hợp chặt chẽ việc tài trợ và quản lý các khoản tài trợ để đảm bảo an
toàn vốn và bù đắp chi phí. Các hoạt động tài trợ gồm:
+ Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển đã được chỉ định trước của chủ
tài trợ (cho vay theo chỉ định của Chính phủ, quản lý và cho vay lại các nguồn
vốn ODA, cho vay các quỹ quay vòng), cho vay theo đối tượng ưu tiên, có thể
tài trợ độc lập hoặc đồng tài trợ, bảo lãnh tín dụng đầu tư…
+ Tài trợ cho các dự án xuất khẩu với tỷ lệ doanh thu xuất khẩu quy
định, quản lý và cho vay các dự án ODA ra nước ngoài, tài trợ dự án xuất
khẩu tư liệu sản xuất sang thị trường ưu tiên, cho vay ngắn hạn những đối
tượng ưu tiên, bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cho thuê.
• Cung cấp các dịch vụ thanh toán, tư vấn cho DN, cung cấp thông tin
và các dịch vụ thu nợ khó đòi…
1.2 Cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển
Tín dụng xuất khẩu là hình thức tài trợ trực tiếp về mặt tài chính để các
nhà xuất khẩu (NXK) nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất
khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu (NNK) nước ngoài có đủ các điều

tín dụng thương mại vì hầu hết các NHTM đều hoạt động trên cơ sở thu lợi từ
việc cho vay và rủi ro càng cao thì lãi suất áp dụng càng cao.
• Đối tượng cho vay được chọn lọc và hạn chế: Trong khi các nguồn
lực của Nhà nước có hạn và NHPT được thiết kế là một kênh cung cấp tín
dụng có hiệu quả trên cơ sở thu hồi vốn cho vay thay vì Nhà nước cho không,
theo đó mỗi quốc gia sẽ xác định những mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong
từng thời kỳ phát triển kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ nhằm thúc
đẩy mặt hàng đó, tín dụng xuát khẩu của Nhà nước được thiết kế để thực hiện
yêu cầu này. Do đó, đối tượng cho vay của NHPT hạn chế hơn các NHTM,
các đối tượng có thể thay đổi trong thời kỳ tùy thuộc vào chiến lược xuất
khẩu. Đặc điểm này cho thấy hoạt động cho vay của NHPT không cạnh tranh
với các NHTM mà ngược lại, cho vay của NHPT và NHTM sẽ cùng nhau
thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
• Cơ chế cho vay ưu đã hơn hình thức cho vay thông thường: Ưu đãi
đầu tiên là ưu đãi về lãi suất, điều này chỉ NHPT mới làm được vì Nhà nước
sẽ cấp bù chênh lệch lãi suất (Cho vay thấp hơn lãi suất huy động) hoặc
NHPT được huy đọng những nguồn vốn có lãi suất rẻ hơn lãi suất của thị
trường. Các NHTM thường ngần ngại khi cho vay đối với các dự án có thời
hạn dài vì rủi ro cao và không tương thích với kỳ hạn huy động thường có của
họ, còn tín dụng ưu đãi của Nhà nước sẵn sàng chấp nhận rủi ro ở mức nhất
định và tạo điều kiện cho DN hoàn trả nợ theo đúng chu kỳ sinh lợi của dự án,
kỳ thu tiền của hợp đồng xuất khẩu nên sẽ thay NHTM hỗ trợ cho vay đối với
các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh có nhu cầu vay vốn trong thời gian
dài. Ưu đãi tiếp theo là đảm bảo tiền vay không cần thiết hoặc ở mức dưới giá
trị vốn vay. Khi vay vốn tại NHTM, các đơn vị, đặc biệt là các DN mới, kinh
doanh những mặt hàng có rủi ro cao phải thế chấp tài sản và có khi thế chấp
bằng hoặc cao hơn giá trị khoản vay. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng
có đủ tài sản để thế chấp khi vay vốn, vì vậy tín dụng ưu đãi của Nhà nước có
cơ chế riêng về đảm bảo tiền vay với một mức tài sản thế chấp tối thiểu hoặc
không phải thế chấp khi vay vốn.

Việc cho vay với thời hạn dài nếu chỉ căn cứ vào nguồn thu từ hợp
đồng xuất khẩu thì thông thường các tổ chức tín dụng chỉ tài trợ đối với các
hợp đồng có hình thức thanh toán là thư tín dụng (L/C) với ngân hàng mở L/C
hoặc ngân hàng xác nhận/ ngân hàng bảo lãnh có uy tín hoặc được chính phủ
của nước nhập khẩu bảo lãnh thanh toán; thời hạn cho vay tùy thuộc vào thời
gian sản xuất và kỳ hạn thu tiền từ hợp đồng xuất khẩu. Đối với hình thức cho
vay đầu tư mở rộng/ đầu tư chiều sau của các DN xuất khẩu, việc quyết định
cho vay phụ thuộc vào tính khả thi của dự án, khả năng tài chính của NXK
bên cạnh mối quan hệ tín nhiệm của bên vay; thời hạn cho vay đối với khoản
vay trung, dài hạn để đầu tư dự án bắt đầu tư khi bên vay thực hiện dự án từ
khâu khảo sát, thiết kế, xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị, đi vào sản
xuất đến khi ký được hợp đồng xuất khẩu, sản xuất hàng hóa, xuất khẩu và
nhận tiền thanh toán. Thời điểm cấp tín dụng và khối lượng tín dụng cấp mỗi
lần phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của người vay. CVXK lúc này có vai trò
cung cấp vốn cho NXK tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh mà không phải
chờ đến khi có tiền thanh toán từ NNK. Theo đó, nếu dàn xếp được khoản vay
trung, dài hạn, NXK có thể chấp nhận cho phía NNK trả chậm để tăng kim
ngạch xuất khẩu.
 Theo đối tượng được cung cấp khoản vay:
• Khoản vay dành cho người bán: Là khoản vay cung cấp trực tiếp
cho NXK để chi trả các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, thu mua và
xuất khẩu hàng hóa. Thời hạn, lãi suất và điều kiện cho vay tùy thuộc vào nhu
cầu thực tế là vốn lưu động hay vốn cố định, khả năng tài chính của NXK và
hình thức thanh toán của hợp đồng xuất nhập khẩu, dự án được thực hiện
trong nước hay nước ngoài. Đối với các khoản cho vay dài hạn đầu tư ra nước
ngoài thường đi kèm với các điều kiện về bảo hiểm và bảo lãnh cho nghĩa vụ
thanh toán của khoản nơ. Tín dụng người bán được cung cấp dưới 2 hình thức
trước và sau khi giao hàng.
Cho vay trước khi giao hàng: Để có vốn cho sản xuất, nhất là đối với
NXK là các DN vừa và nhỏ, họ cần được cung cấp khoản vay trước khi giao

hóa muốn xuất khẩu là loại thuộc diện khuyến khích phát triển xuất khẩu,
hàng hóa có giá trị cao và quảng bá trên thị trường thế giới khi nước ngoài
chưa biết đến danh tiếng của hàng hóa, DN sản xuất loại hàng hóa đó và tạo
được thị trường mới cho các tư liệu sản xuất muốn xuất khẩu khi đầu tư cho
các dự án ở nước ngoài, đồng thời NXK yên tâm sản xuất vì khong lo chịu rủi
ro mất khả năng thanh toán từ NNK và các ké hoạch kinh doanh được thực
hiện trôi chảy hơn, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và các sản
phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đi kèm với sản phẩm này
thường là các khoản bảo lãnh thanh toán, bảo hiểm của một tổ chức có uy tín
hoặc Chính phủ nước nhập khẩu đối với nghĩa vụ thanh toán của NNK.
Khoản vay dành cho NNK thường được thực hiện sau khi NXK đã thực hiện
giao hàng và được thực hiện theo các hình thức như: Cho vay trực tiếp, tài trợ
dự án và cho vay thông qua ngân hàng phục vụ NNK.
Khi trình độ sản xuất phát triển và thương mại quốc tế ngày càng rộng
mở yêu cầu các DN cạnh tranh bình đẳng và công bằng hơn thì hình thức cho
vay trực tiếp có tính chất hỗ trợ cho các NXK dần giảm xuống, thay vào đó là
các hình thức tài trợ mang tính chất gián tiếp như cho vay NNK, bảo lãnh tín
dụng, bao thanh toán tương đối, bao thanh toán tuyệt đối, cho thuê và có thể
đi kèm với hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
 Ngoài ra có thể chia CVXK thành cho vay từng lần và cho vay
theo hạn mức:
• Cho vay từng lần là việc NHPT và khách hàng thỏa thuận việc vay
vốn căn cứ theo từng hợp đồng xuất khẩu cụ thể. Mỗi lần vay vốn, NHPT và
khách hàng làm lại thủ tục như quy định.
• Cho vay theo hạn mức là việc NHPT và khách hàng xác định và
thỏa thuận một hạn mức cho vay duy trì trong một thời hạn nhất định với mức
dư nợ cho vay không vượt quá hạn mức cho phép được thỏa thuận tại hợp
đồng cho vay theo hạn mức.
1.2.3 Vai trò của cho vay xuất khẩu
1.2.3.1 Đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng gia tăng cho hoạt động xuất khẩu

được xuất khẩu dưới hình thức trả chậm, các DN có thể nhanh chóng thu
được tiền về và tiếp tục đầu tư cho hoạt động của mình.
• Ở nhiều nước, sản xuất trong nước phụ thuộc rất nhiều vào hàng hóa
nhập khẩu đã dẫn đến nhu cầu về tín dụng cho nhập khẩu hàng hóa vốn và
nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước gia tăng. Do khả năng
đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế, khả năng nhập khẩu hàng hóa đầu vào cho sản
xuất hàng xuất khẩu đã trở thành vấn đề lớn và các NXK thường phải cạnh
tranh với các DN sản xuất hàng hóa cung cấp cho thị trường trong nước. Với
một hệ thống tài trợ cho xuất khẩu đủ mạnh, các NXK có thể tiếp cận được
nguồn vốn dễ dàng và không gặp nhiều khó khăn tài chính khi tìm kiếm
nguồn vốn cho việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào thông qua việc cấp tín
dụng cho họ thì sự cạnh tranh dư thừa giữa nhà sản xuất cung cấp cho thị
trường nội địa và hải ngoại sẽ tránh được.
1.2.3.2 Hỗ trợ các DN vừa và nhỏ tham gia các hoạt động thương mại
quốc tế
Mỗi quốc gia có những tiêu chí đánh giá khác nhau để đưa ra khái niệm
thế nào là DN vừa và nhỏ. Ở Việt Nam, DN loại này được định nghĩa là các
DN có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng (khoảng 640.000USD ) và có số lao động
trung bình hàng năm dưới 300 người. Một đặc điểm chung của loại hình DN
này là khả năng tự nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng tỷ suất lợi nhuận theo cả
chiều sâu và chiều rộng của cá DN là rất nhỏ, xuất phát từ hạn chế về vốn,
quy mô sản xuất. Nguồn vốn hạn hẹp làm cho các DN thường gặp khó khăn
trong việc mua sắm mới và nâng cao chất lượng trang thiết bị, đổi mới và
hiện đại hóa công nghệ, cải tạo môi trường, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ
lao động, mua nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, khó khăn trong việc đưa sản
phẩm đã sản xuất ra thị trường quốc tế nhất là khi nước đó hiện ở trong giai
đoạn đang phát triển. Hơn nữa, với quy mô nhỏ, các DN này cũng khó có thể
tiếp cận được những khoản tín dụng của NHTM và các tổ chức tín dụng theo
nhu cầu thực tế của họ để phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu khách hàng mỗi
khi họ có đơn hàng xuất khẩu, đặc biệt là nguyên nhân không đủ các điều

trọng đối với các DN hoạt động xuất khẩu. Trong dài hạn, vai trò này phát
huy được tính chất quyết định của mình.
1.2.1.3.3 Giúp đỡ DN đương đầu với rủi ro trong thương mại quốc tế
Thị trường quốc tế luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể gây ra thiệt hại vô
cùng to lớn cho các đối tượng tham gia vào đó. Với một khối lượng vốn đầu
tư lớn trong mỗi thương vụ, việc thua thiệt trong một hai hợp đồng có thể
khiến các NXK đi đến phá sản. Rủi ro có thể đến từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, có thể kể đến như: chinh trị bất ổn, hệ thống pháp luật không tương
thích, khác biệt lớn trong tập quán thương mại, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất,
các rủi ro khác như cướp biển, chiến tranh… đều có thể gây ra những tổn thất
nặng nề. Có thể nói rủi ro trong thương mại quốc tế sẽ khiến cho NXK phải
chú ý tới hoạt động của mình nhiều hơn bất kỳ các DN kinh doanh trong
nước. Trong tình hình như vây, các tổ chức Chính phủ như NHPT sẽ thật sự
là cứu tinh của các DN. Không chỉ giúp đỡ các DN trong việc cho vay vốn,
mà kèm theo đó là các hoạt động tư vấn, bảo lãnh, bảo hiểm…, NHPT thực
sự san sẻ rủi ro với khách hàng của mình. Ngay từ một quyết định cấp vốn
hay không cũng đã giúp DN tránh được những khoản chi phí nặng nề. Hơn
thế nữa, với sự giúp đỡ, hỗ trợ từ NHPT, NXK sẽ mạnh dạn hơn trong đầu tư
về cả chiều sâu và chiều rộng nhằm tăng tính cạnh tranh của mình trên trường
quốc tế, cùng với việc có thể nâng cao khả năng phân tích, tìm hiểu thị trường
qua sự tư vấn của NHPT, từ đó giảm thiểu được những rủi ro đáng tiếc.
1.3 Chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT
Rất khó có thể đưa ra một khái niệm cụ thể và chính xác cho cụm từ:
“Chất lượng cho vay”, mà đặc biệt là các khoản vay cho xuất khẩu tại NHPT.
Sau đây là một số hiểu biết về chất lượng cho vay tại các NHTM, từ đó có thể
có được những hình dung cụ thể về khái niệm này tại NHPT.
Chất lượng CVXK tại NHTM là chất lượng của các khoản CVXK của
NHTM. Các khoản CVXK có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử
dụng đúng mục đích, hiệu quả, tạo ra được lợi nhuận, thông qua đó, NHTM

hàng có quy mô dự nợ ở mức cao và luôn đạt mức tăng trưởng dư nợ cho hoạt
động CVXK nhanh cho thấy chất lượng các khoản tín dụng là tốt, khả năng
thu hồi nợ và việc thực hiện các chính sách về hỗ trợ xuất khẩu sẽ được thực
hiện thuận lợi. Song, cần hết sức lưu ý khi sử dụng hai chỉ tiêu này trong việc
phân tích bởi chúng có mối quan hệ liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu những
con số về dư nợ CVXK là rất lạc quan trong khi đó tốc độ tăng trưởng của nó
lại gặp khó khăn trong một số giai đoạn gần đây cho thấy xu hướng hạn chế
dần của hoạt động CVXK. Bởi quy mô dư nợ thì lớn lên từng ngày trong khi
đó tốc độ tăng trưởng của dư nợ lại chững lại thậm chí là âm chứng tỏ NHPT
không muốn hay không có khả năng mở rộng quy mô CVXK.
1.3.2.2 Dư nợ CVXK trên tổng dư nợ
Đây cũng là một chỉ tiêu khá quan trọng, phản ánh vị trí của hoạt động
CVXK trong hoạt động tín dụng của NHPT. Chỉ tiêu này thể hiện mức độ
quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với hoạt đông này trong tổng thể các hình
thức tín dụng và cũng thể hiện mức độ thành công của NHPT trong việc thu
hút sự tín nhiệm của các DN xuất khẩu. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện mức
độ phát triển của hoạt động này càng lớn. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp phản
ánh chất lượng của hoạt động còn yếu, sự quan tâm của chính sách Nhà nước
cho hoạt động này không nhiều và sự nghèo nàn trong các hình thức CVXK.
1.3.2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho phép đưa ra sự đánh giá rõ hơn về chất lượng CVXK
bởi nó đánh giá và phản ánh tình hình về nợ quá hạn ở NHPT trong quá trình
CVXK. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với chất lượng hoạt động CVXK của NHPT,
Bởi lẽ, nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cho thấy sự an toàn của các
khoản vay không được đảm bảo, rủi ro là lớn làm đình trệ quá trình luân
chuyển vốn, như vậy sẽ khiến NHPT không hoàn thành được nhiệm vụ hỗ trợ

chất lượng hoạt động tốt. Nếu nguồn vốn dùng để giải ngân là nguồn vốn
ngân sách thì các khoản vay đó chỉ gây lãng phí lớn các khoản thuế mà người
dân lao động đã đóng góp, phục vụ cho lợi ích của một số ít cá nhân trong xã
hội.
1.3.2.5 Các chỉ tiêu phản ánh khác
Không giống như CVXK ở các NHTM, hoạt động cho vay này tại NHPT
không vì mục đích lợi nhuận mà chỉ dừng lại ở mức thu hồi đủ vốn và đủ bù
chi phí hoạt động để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, giúp đỡ các DN xuất
khẩu tiếp cận nguồn vốn rẻ, giảm giá thành để tăng tính cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Như vậy, việc CVXK có đạt được chất lượng tốt hay không
không chỉ dựa vào các chỉ tiêu nằm trong ngân hàng mà nó còn được đánh giá
qua các chỉ tiêu khác. Tăng trưởng CVXK trên địa bàn, trong nước là một chỉ
tiêu tốt để đánh giá hiệu quả hoạt động này. Vì suy cho cùng, như tên gọi,
mục đích chính của nó là để hỗ trợ xuất khẩu. Các chỉ tiêu dư nợ cao, tốc độ
tăng trưởng cao mà không làm cho xuất khẩu tăng trưởng, không cải thiện vị
thế các DN xuất khẩu cũng như thị trường Việt Nam trên trường quốc tế thì
cũng không có nhiều ý nghĩa. Một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội khác là
đời sống nhân dân, tỷ lệ thất nghiệp có được cải thiện nhờ xuất khẩu tăng hay
không. Cuối cùng là chỉ tiêu mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ Ngân sách Nhà
nước. Nhiều trường hợp khi nền kinh tế biến động, NHPT phải huy động vốn
với lãi suất cao để CVXK với lãi suất thấp hơn, khoản chênh lệch lãi suất này
sẽ được Chính phủ bù đắp. Như vậy, nếu Chính phủ phải bù đắp quá nhiều thì
chứng tỏ chất lượng của hoạt động CVXK của NHPT chưa cao.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT
1.4.1Các nhân tố bên ngoài
1.4.1.1 Từ phía các DN xuất khẩu
• Trình độ tổ chức, sản xuất kinh doanh của DN:
Một khoản CVXK được coi là có chất lượng nếu khoản cho vay đó được
người tiếp nhận sử dụng đúng mục đích và đem lại hiệu quả. Như vậy, nếu
nội bộ ngân hàng thực hiện tốt các yêu cầu đề ra vẫn gặp phải rủi ro nhất định

đều phải đánh giá đến tiềm lực tài chính của DN đó. Một DN có tiềm lực tài
chính mạnh là DN có khả năng huy động được các nguồn vốn tiếp theo một
cách dễ dàng hơn với giá hợp lý hơn. Khả năng về tài chính đó đến từ uy tín
hoạt đông lâu năm và khả năng kinh doanh sản xuất của họ. Chính vì vậy, DN
có tiềm lực tài chính yếu kém khi gặp thua lỗ trong vài thương vụ xuất khẩu
sẽ khó lòng huy động được các nguồn vốn từ nơi khác để bù đắp và trả nợ cũ,
gây ra tình trạng xấu cho Ngân hàng.
Vấn đề thứ hai cần bàn đến là chiến lược kinh doanh của DN. Một DN
muốn thành công và tồn tại trên thị trường luôn cần có một chiến lược kinh
doanh rõ rang và nhất quán. Chiến lược kinh doanh tác động lớn đến việc
thành bại của các dự án, từ đó ảnh hưởng đến việc huy động vốn và trả nợ của
DN. Một chiến lược kinh doanh không rõ ràng sẽ rất dễ bị hoàn cảnh tác động
và dễ bị thay đổi, khiến cho DN đó khó có thể đứng vững trên thị trường vì
chi phí phát sinh từ việc thay đổi chiến lược kinh doanh là khó có thể bù đắp
một cách nhanh chóng.
• Các dự án được nhận tài trợ
Vai trò của NHPT được đánh giá bởi thành công của các dự án mà Ngân
hàng tài trợ. Nếu Ngân hàng tài trợ cho một dự án lành mạnh, tức là có sự phù
hợp giữa mục tiêu quốc gia và mục tiêu của Ngân hàng, khi dự án thành công,
Ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, các dự án xuất khẩu thường
chứa nhiều rủi ro, hoặc có nhiều dự án nằm trong chỉ đạo của Chính phủ
mang nhiều mục tiêu chính trị - xã hội (như trợ cấp, hỗ trợ cho các nước
khác), lấn át các chỉ tiêu sinh lời hoặc khó đánh giá các chỉ tiêu sinh lời. Rất
nhiều dự án do cac cơ quan Chính phủ, các ngành đưa đến và Ngân hàng phải
buộc tài trợ trong khi dự án không có nhiều khả năng thành công. Tình trạng
này làm cho bộ máy NHPT kém linh hoạt và nhạy bén, đồng thời làm cho
chất lượng của công tác CVXK của Ngân hàng cũng kém hơn.
1.4.1.2 Các biến số kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý
• Tỷ giá:
Tỷ giá trên thị trường hối đoái biến đổi mạnh có thể gây ảnh hưởng lớn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status