Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật tắc ruột sau mổ tại bệnh viện việt tiệp hải phòng từ tháng 01 2009 đến 06 2012 - Pdf 34

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tắc ruột sau mổ là những trường hợp tắc ruột cơ học phát sinh từ hậu
quả của lần mổ ổ bụng trước. Trong các nguyên nhân gây tắc ruột cơ học, tắc
ruột sau mổ chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60 – 70% [31] [62].
Cho đến nay việc chẩn đoán tắc ruột sau mổ vẫn dựa vào các triệu
chứng kinh điển là: tiền sử mổ bụng cũ, đau bụng cơn, nôn, bí trung tiện, quai
ruột nổi, mức nước hơi trên phim X quang bụng đứng. Tuy nhiên nếu chỉ vận
dụng máy móc các triệu chứng trên vào chẩn đoán mà không theo dõi chặt
chẽ và phối hợp điều trị nội khoa thì nguy cơ gây biến chứng hoại tử ruột sẽ
rất cao và có thể dẫn đến tử vong [26].
Cùng với sự phát triển của chuyên khoa gây mê hồi sức, chẩn đoán
hình ảnh và kháng sinh điều trị, tỉ lệ tử vong do tắc ruột sau mổ đã giảm nhiều
trong vòng 30 năm trở lại đây. Tuy vậy số lượng bệnh nhân phải mổ do tắc
ruột sau mổ chưa giảm nhiều và tỉ lệ hoại tử ruột vẫn ở mức cao: tại bệnh viện
tỉnh Bắc Giang là 20.6%, tại bệnh viện 103 là 13.3%, bệnh viện 198 là 15.3%
[8].
Vấn đề phẫu thuật lập lại lưu thông ruột như thế nào trong điều trị phẫu
thuật tắc ruột sau mổ dường như không còn được nhắc đến nhiều nữa. Các
nghiên cứu trên Thế giới và tại Việt Nam trong vòng 20 năm trở lại đây tập
trung vào việc cố gắng đưa ra những tiêu chuẩn về lâm sàng và cận lâm sàng
để phân biệt nguyên nhân gây tắc ruột sau mổ (do thắt nghẹt hay do bít tắc)
[17] [18] [23]. Đặc biệt là những tiến bộ về siêu âm và CT scanner ổ bụng
trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã khẳng định siêu âm và CT scanner ổ
bụng giá trị chẩn đoán tắc ruột từ 89- 100% [14] [9] [37] [42] [43] [46].
Bệnh viện Việt Tiệp – Hải Phòng là một cơ sở điều trị lớn của miền
duyên hải Bắc bộ. Tình hình chẩn đoán và điều trị phẫu thuật tắc ruột sau mổ
có nhiều tiến bộ, tuy nhiên số lượng bệnh nhân tắc ruột sau mổ tiếp tục tăng

1



Thần kinh chi phối phúc mạc: lá phúc mạc thành được chi phối bởi
nhánh thần kinh của tủy sống, lá tạng được chi phối bởi các nhánh của thần
kinh giao cảm chi phối cho các tạng tương ứng.
Trong khoang phúc mạc có lớp dịch mỏng giúp cho 2 lá phúc mạc trượt
lên nhau dễ dàng. Khi phúc mạc bị tổn thương, chúng sẽ dính với nhau làm
cho các đoạn của ống tiêu hoá dính với nhau hoặc dính vào thành bụng gây
hạn chế nhu động, đồng thời có thể gây ra tắc ruột
Về tổ chức học, phúc mạc được cấu tạo bởi hai lớp: Lớp thanh mạc là
một lớp tế bào biểu mô lát đơn, luôn tiết ra một lớp dịch mỏng làm thấm ướt
phúc mạc, giúp cho chúng trơn trượt lên nhau một cách dễ dàng trong ổ bụng.

3


Lớp dưới thanh mạc là lớp mô sợi liên kết góp phần thúc đẩy quá trình tạo sợi
và dính trong bụng nhất là khi phúc mạc bị tổn thương

Hình 1.1. Ruột non, đại tràng và mạc nối lớn ( Nguồn: Atlas Netter)

4


1.1.2. Ruột non:

Hình 1.2. Ruột non và động mạch nuôi dƣỡng (Nguồn: Atlas Netter)

5


Ruột non gồm ba đoạn: tá tràng, hỗng tràng, hồi tràng [20].

hấp thu đó là: co nghẹt, cử động quả lắc, nhu động, phản nhu động. Các hoạt
động này được thực hiện tự động dưới sự điều khiển của đám rối Auerbach.
Những kích thích tại chỗ cũng như trên dây X đều làm tăng hoạt động nhu
động của ruột. Dịch tiêu hóa bài tiết trung bình khoảng 5 - 10 lít/24 giờ, chỉ có
dịch dạ dày có pH < 1,5 có tính acid, còn lại các dịch khác đều có tính kiềm.
Tác giả Trịnh Hồng Sơn đã tổng hợp các chức năng chính của ruột non
[33]. Phần chính hấp thu carbonhydrate và protein là ở tá tràng và hỗng tràng.
Nhiều loại mỡ và các vitamin tan trong mỡ được hấp thu ở hồi tràng. Muối
mật được tiết ra từ gan vào tá tràng, nó tăng cường khả năng hấp thu acid béo
chuỗi dài và các vitamin tan trong mỡ ở hồi tràng. Vitamin B12 được cố định
bởi yếu tố nội (sản xuất ở dạ dày) và được hấp thu ở đoạn cuối hồi tràng.
Nước và điện giải phần lớn được hấp thu ở hồi tràng và trong đại tràng. Khi tá
tràng và/ hoặc hỗng tràng bị cắt bỏ, hồi tràng có thể thay đổi để thay chức
năng hấp thu của nó. Tuy nhiên, tá tràng và hỗng tràng thì không thể thay đổi
chức năng của hồi tràng. Do vậy cắt bỏ tá tràng và hỗng tràng thường thì sự
dung nạp tốt hơn những trường hợp cắt bỏ hồi tràng. Hầu hết nước và điện
giải được hấp thu ở hồi tràng và đại tràng. Bình thường, 2-3 lít được tiếp nhận
từ thức ăn và đồ uống, trong tổng số 7-9 lít được tiết ra, được hấp thu mỗi
ngày từ đường tiêu hóa. Chiều dài ruột non vẫn đảm bảo chức năng bình
thường nếu dài khoảng 300 cm đến 850 cm ở người lớn, từ 200 đến 250 cm
đối với trẻ trên 35 tuần, và xấp xỉ 100 đến 120 cm đối với trẻ đẻ non dưới 30
tuần. Mất hơn 80% ruột non làm tăng nhu cầu cung cấp dinh dưỡng ngoài
đường tiêu hóa và giảm chất lượng sống. Khi van hồi – manh tràng mất, kết
quả vi khuẩn lây bệnh ở ruột non tăng cao hơn. Van hồi manh tràng chính là
rào cản ngăn cách giữa ruột non và ruột già. Nó giúp cho điều chỉnh sự thoát
nước và kém hấp thu chất dinh dưỡng từ ruột non. Nó còn giữ cho vi khuẩn từ

7



1.1.4.1. Cơ chế phát sinh dính và dây chằng sau mổ ổ bụng
Bất cứ can thiệp nào vào ổ phúc mạc cũng có thể gây tổn thương phúc
mạc (chấn thương, nhiễm trùng, phản ứng viêm do dị vật...) và gây ra dính,
dây chằng trong ổ bụng. Các tổn thương phúc mạc tiến triển theo 2 hướng
[40]:
- Hoặc tái tạo lại phúc mạc bình thuờng nhờ sự phát triển của các tế bào
biểu mô che phủ phần phúc mạc bị tổn thương. Nguồn gốc của các tế bào biểu

9


mô này còn đang được tranh luận, trước kia người ta cho rằng các tế bào này
có nguồn gốc từ những tế bào đa năng dưới biểu mô. Nhưng những nghiên
cứu mới đây đã chứng minh được vai trò quan trọng của các tế bào xung
quanh nơi tổn thương kể cả những tế bào có trong dịch phúc mạc.
- Hoặc tiến triển theo hướng bệnh lý: Các tế bào xơ và các mạch máu
tân tạo phát triển tạo nên các dây chằng và dính . Quá trình diễn biến này diễn
ra khá nhanh trong khoảng 6-8 ngày nhưng khó có thể xác định chính xác thời
gian hình thành vĩnh viễn dính và dây chằng.
1.1.4.2. Sinh lý bệnh của tắc ruột sau mổ
Khi tắc ruột gây ra các rối loạn toàn thân và tại chỗ.
Tại chỗ
- Tăng nhu động: Trong giai đoạn đầu của bệnh, nhu động của ruột tăng về
tần số và cường độ, cố gắng đẩy các chất trong lòng ruột qua chỗ tắc làm cho
áp lực trong lòng ruột tăng, sau đó nhu động giảm xuống và dừng lại, sau một
thời gian yên lặng, nhu động ruột lại tăng trở lại. Hiện tượng nhu động ruột
tương ứng với những cơn đau bụng của bệnh nhân. Đây là triệu chứng cơ bản
để phân biệt TR cơ năng và TR cơ giới. Trong giai đoạn muộn, khi quai ruột
ở phía trên chỗ tắc giãn căng, nhu động sẽ thưa dần sau đó mất, nhất là trong
trường hợp TR do nghẹt .

- Mất nước, điện giải và rối loạn thăng bằng toan kiềm do:
+ Nôn do phản xạ: do trào ngược đẩy lượng dịch ứ đọng trên chỗ tắc ra ngoài
làm giảm áp lòng ruột.
+ Giảm hấp thu ruột và tăng tính thấm thành mạch ruột làm mất nước từ lòng mạch
vào ruột.
- Nhiễm trùng, nhiễm độc: Do độc tố của vi khuẩn, và các vi khuẩn xâm nhập
vào máu và ổ phúc mạc. Tình trạng này còn xuất hiện muộn nhất là khi ruột
thiếu máu hoại tử.

11


1.2. CHẨN ĐOÁN TẮC RUỘT SAU MỔ
TRSM được xếp trong nhóm tắc ruột cơ học [31], xảy ra sau mổ và
nguyên nhân trực tiếp là do lần phẫu thuật trước đó, không tính đến TR do
ung thư di căn, do bã thức ăn, ... Triệu chứng kinh điển là “đau bụng cơn, nôn,
bí trung - đại tiện, chướng bụng” dễ dàng phát hiện qua hỏi và thăm khám đối
với phẫu thuật viên. Nhưng đôi khi không đầy đủ, chúng xuất hiện ở các mức
độ khác nhau, thứ tự khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bản chất
tổn thương, vị trí tắc, đã điều trị hay chưa.
Nguyễn Đức Ninh đã đưa ra những khó khăn về chẩn đoán xác định
TRSM. Tác giả đã đưa ra 2 trường hợp là: chẩn đoán sai - mổ đúng và chẩn
đoán đúng - mổ sai. Trong trường hợp thứ nhất, tác giả thống kê những chỉ
định mổ là TRSM nhưng khi mổ mới phát hiện ra là do áp xe gan vỡ, viêm
mủ vòi trứng xoắn, viêm phúc mạc toàn thể do viêm ruột thừa … Ở trường
hợp thứ hai, tác giả ghi nhận 5 bệnh nhân trong năm 1984 có chỉ định mổ cấp
cứu, và cả 5 bệnh nhân đều có trung tiện trước mổ hoặc ở trên bàn mổ đó
không phải mổ[26].
1.2.1. Đặc điểm lâm sàng
* Cơ năng:

thuật bẩn[23].
* Thực thể:
Tần số mạch và huyết áp động mạch tối đa:
Theo Bùi Thanh Hải và Phạm Duy Hiển dấu hiệu mạch nhanh có giá trị
theo dõi TRSM và là dấu hiệu trung thành của xoắn ruột và hoại tử ruột cần
đặt ra vấn đề mổ sớm trên những bệnh nhân này[10]. Theo nghiên cứu của
Trần Nhật Hùng, tần số mạch trung bình của bệnh nhân TRSM được phẫu
thuật ngay là 89  10, trong đó mạch nhanh trên 100 lần/ phút chiếm 22.6 %
Chƣớng bụng :
Là dấu hiệu thể hiện các quai ruột ở phía trên chỗ tắc giãn to do ứ hơi và dịch.

13


Mức độ chướng còn phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Vị trí tắc cao hay thấp
+ Mức độ giãn ruột nhiều hay ít
+ Tình trạng thành bụng bệnh nhân dầy hay mỏng
+ Sự đánh giá chủ quan của thầy thuốc.
Điểm đau khu trú, phản ứng thành bụng:
Trong TR điểm đau khu trú hoặc phản ứng thành bụng là những dấu hiệu
biểu hiện tình trạng thiếu máu của quai ruột bị nghẹt hoặc vị trí của nghẹt
ruột. Trong TRSM thường gặp điểm đau khu trú ngay dưới vết mổ cũ ổ bụng.
Khi gặp dấu hiệu này cần được phẫu thuật ngay. Theo Trần Nhật Hùng, 40.2
% bệnh nhân trong nhóm được phẫu thuật ngay có biểu hiện điểm đau khu
trú, 100% bệnh nhân có phản ứng thành bụng cũng được mổ ngay khi vào
viện [23].
Dấu hiệu quai ruột nổi, rắn bò
Dấu hiệu quai ruột nổi: nhìn có thể thấy khối phồng trên thành bụng, sờ
nắn có cảm giác căng, bờ rõ, gõ vang. Dấu hiệu rắn bò là đấu hiệu đặc trưng

1.2.2. Cận lâm sàng
1.2.2.1. Chụp X quang bụng không chuẩn bị
Chụp Xquang bụng không chuẩn bị, là phương pháp rất có giá trị trong
chẩn đoán TR. Những hình ảnh tắc ruột có thể xuất hiện sớm ngay cả khi dấu
hiệu lâm sàng chưa rõ ràng. Dựa vào các hình ảnh trên phim chụp bụng không
chuẩn bị ta có thể chẩn đoán xác định TR cũng như vị trí và nguyên nhân TR
đồng thời đánh giá sự tiến triển của TR [14].
Dấu hiệu của TR trên phim chụp bụng không chuẩn bị là hình ảnh mức
nước hơi. Trong tắc ruột non, các mức nước hơi có chân rộng và tập trung ở
giữa bụng, khi tắc thấp ở đại tràng các mức nước hơi có chân hẹp và nằm dọc
theo khung đại tràng. Tỷ lệ chẩn đoán TR trên phim Xquang bụng không
chuẩn bị là trên 80% có tác giả tỷ lệ phát hiện cao 90% [14] .

15


Chụp bụng không chuẩn bị có thể gợi ý cơ chế tắc ruột với các dấu
hiệu: thành ruột dày, mất niêm mạc, quai ruột, cố định nếp niêm mạc dày,
giảm nhu động, tăng dịch trong lòng ruột, có dịch trong ổ bụng [14] .
Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Văn Hải, Xquang có độ chuyên biệt
tương đối thấp, và đáng lưu ý là có những trường hợp tắc ruột thắt nghẹt
nặng mà XQ hoàn toàn bình thường hoặc không kết luận được. Mặt khác,
Xquang bụng không chuẩn bị có thể xác định là có tắc hay không? vị trí tắc?
nhưng không thể xác định chính xác nguyên nhân tắc [13]. Trong nghiên cứu
của Đỗ Sơn Hà, 76% bệnh nhân TRSM trong nhóm được phẫu thuật có hình
ảnh mức nước hơi trên phim X quang bụng không chuẩn bị. Đáng chú ý là có
10 trường hợp không có hình ảnh mức nước hơi thì có tới 9 trường hợp tắc
ruột do thắt nghẹt, trong đó 3 trường hợp đã có hoại tử ruột [7].
1.2.2.2. Chụp X quang bụng cản quang
Về mặt ưu điểm chẩn đoán có thể xác định được vị trí tắc, TR hoàn

(CTOB) ngày nay nên được dùng như một khảo sát hình ảnh bổ sung trong
những trường hợp TR mà có những dấu hiệu lâm sàng và Xquang chưa chắc
chắn. Năm 1993, Maglinte nghiên cứu ở 55 trường hợp thấy độ chính xác của
CTOB trong chẩn đoán TR là 65% (ở TR cao là 81%, ở TR thấp là 48%), tác
giả cho rằng CTOB không đủ nhạy để chẩn đoán TR thấp và không đủ tin cậy
để loại trừ TR thấp [57]. Frager (1994) khảo sát về giá trị của CTOB trong
việc xác lập chẩn đoán và xác định nguyên nhân, mức độ của TR non nhận
thấy: độ nhạy của CTOB trong chẩn đoán TR hoàn toàn đến 100%, độ tin cậy
86-100%, CTOB giúp tránh được việc trì hoãn phẫu thuật từ 12-72 giờ và do
đó giảm được tử vong, biến chứng và chi phí điều trị; theo ông, CTOB là
phương pháp nhạy để chẩn đoán tắc hoàn toàn ở ruột non và để xác định vị trí,
nguyên nhân tắc, ông đặc biệt khuyên dùng CTOB khi kết quả lâm sàng và
Xquang không kết luận được hoặc là khi có chẩn đoán phân biệt [47]

17


Ha (1993) khảo sát ở 20 trường hợp tắc ruột sau mổ chia làm 2 nhóm
TR do thắt nghẹt và TR do bít tắc, nhận thấy: hẹp lòng ruột giống như mỏ
chim là dấu hiệu CTOB thường gặp nhất ở cả 2 nhóm; dấu hiệu gợi ý thắt
nghẹt là mỏ chim hình răng cưa, phù nề mạc treo hoặc sung huyết mạch máu
và dày thành ruột từ vừa đến nặng; ngược lại, ở nhóm tắc đơn thuần, dấu hiệu
mỏ chim thì nhẵn, không có thay đổi ở mạc treo và thành ruột thì bình thường
hoặc dày nhẹ [52].
1.3. ĐIỀU TRỊ TẮC RUỘT SAU MỔ
Có hai biện pháp điều trị TRSM là điều trị bảo tồn và điều trị phẫu
thuật, tuy nhiên đối với bất kỳ bệnh nhân nào, điều trị bảo tồn luôn được đặt
ra hàng đầu, nó quyết định đến việc chỉ định hoặc kết quả của điều trị phẫu
thuật.
1.3.2. Điều trị bảo tồn

cảm ứng phúc mạc thì đã muộn, khó tránh khỏi cắt đoạn ruột [26]
Nguyễn Hữu Thành cho rằng: đau nhiều, nôn nhiều, mất nước, bụng
chướng nhiều, dấu hiệu rắn bò, ấn đau nên mổ ngay[34].
Đỗ Phú Đông nhận thấy quá nửa số TRSM điều trị bảo tồn thành công
nên khuyên rằng điều trị nội trước tiên và theo dõi một vài triệu chứng nếu
thấy nặng lên thì chỉ định mổ.
Nguyễn Đình Hối: cho rằng khi những bệnh nhân đến viện với những
triệu chứng không rầm rộ thì nên điều trị nội, không cần mổ ngay, khi bệnh
nhân đến muộn nhất là khi nôn ra dịch giống phân thì nên mổ ngay [19].
Trong nghiên cứu của Trần Nhật Hùng, có 273 bệnh nhân được chỉ
định mổ do tắc ruột sau mổ. Trong đó tổn thương do dây chằng và dính chiếm
tỷ lệ cao nhất. Các biện pháp phục hồi lưu thông ruột được ghi nhận là : gỡ
dính 79 trường hợp, cắt dây chằng 118 trường hợp, tháo xoắn 30 trường hợp
và 38 trường hợp cắt đoạn ruột. Trong 38 trường hợp cắt đoạn ruột có 10

19


trường hợp do quá dính, 11 trường hợp do xoắn ruột và 17 trường hợp do dây
chằng gây hoại tử ruột [23].
Biện pháp mở thông trên chỗ tắc và nối tắt ít được thực hiện, trong
nghiên cứu của Trần Nhật Hùng, nối tắt 7/273 trường hợp, chỉ nối tắt một
trường hợp[23]. Tác giả Stepanian và cộng sự nghiên cứu trên 22 bệnh nhân
tắc ruột sau mổ, có 6 trường hợp có tắc ruột do thắt nghẹt, có 2 trường hợp
phải mở thông trên chỗ tắc, 4 trường hợp cắt đoạn ruột non [61].
Bjorg Tilde Fevang và cộng sự tiến hành một nghiên cứu trên 877
trường hợp trong vòng 35 năm ( từ năm 1961 đến 1995 ) đã ghi nhận có có
17% trường hợp cắt đoạn ruột do dính, 27% trường hợp do thoát vị nội [58].
Phẫu thuật nội soi đã được triển khai trong điều trị tắc ruột sau mổ
trong thời gian gần đây.Tác giả Nguyễn Hồng Sơn đã tiến hành phẫu thuật nội

hoại tử ruột có thể thủng nhất là khi có xoắn ruột. Tử vong còn do phải cắt
đoạn ruột rộng rãi, gỡ dính quá nhiều làm mất máu và kéo dài thời gian gây
mê, hoặc do bục miệng nối [5].
Nguyễn Hữu Thành nghiên cứu hồi cứu trên 715 trường hợp tắc ruột tại
bệnh viện Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1988. Trong đó có
463 trường hợp TRSM, tỷ lệ tử vong là 4.75 %, tuy nhiên tác giả chưa đưa ra
tỷ lệ riêng cho TRSM và cũng chỉ thống kê về thời điểm bệnh nhân tử vong,
trong đó 19/22 trường hợp tử vong sau 24 giờ nhập viện [34]
Cũng tại bệnh viện Việt Đức, tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu của Trần Nhật
Hùng trong vòng 3 năm (từ năm 2000 đến năm 2002) là 0.03 % [23]. Nghiên
cứu của Trần Minh Đạo tại bệnh viện 103 trên 463 bệnh nhân có 4 trường hợp
tử vong sau mổ. Tác giả lý giải cho 1 trong 4 trường hợp này là bệnh nhân tắc
ruột sớm sau mổ cắt lách nên các triệu chứng lâm sàng không rõ ràng, đến khi

21


có chỉ định mổ lại thì bệnh nhân đã ở trong tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc
nặng [4].
J. J. Duron và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 286 bệnh nhân được phẫu
thuật do TRSM trong thời gian trung bình là 41 tháng. Kết quả là 3% tử vong
sớm sau mổ ( trong vào 30 ngày kể từ thời điểm mổ ), tử vong muộn sau mổ
là 7%. Tác giả này ghi nhận tất cả bệnh nhân trong 2 nhóm trên đều trên 75
tuổi. Cũng theo nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số yếu tố liên quan đến
tử vong sau mổ TRSM là là điểm ASA ≥ III, có biến chứng kèm theo trong
giai đoạn hậu phẫu và cơ chế gây tắc ruột ( tắc ruột bít tắc hay do thắt nghẹt )
[48].
Viêm phúc mạc sau mổ
Theo Nguyễn Đình Hối các yếu tố nguy cơ là khoang bụng bẩn, thành
ruột được nuôi dưỡng kém, miệng nối bị căng, bệnh nhân cao tuổi và có bệnh

lại sớm vì TR thường do dịch tồn dư sau mổ [19].
Nhiễm trùng vết mổ.
Trong nghiên cứu Zerey [65] và Kouadio [67] tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ
từ 10.2 % đến 21.2 %. Theo Diakité Mariam Bouréïma nhiễm khuẩn vết mổ
là biến chứng sớm sau phẫu thuật và thường xuyên nhất trong phẫu thuật tiêu
hóa, phụ thuộc nhiều yếu tố và tình trạng toàn thân của bệnh nhân, điều kiện
vô khuẩn trong phòng mổ và thời gian phẫu thuật [66].
Đánh giá kết quả chung của điều trị phẫu thuật
Hiện nay, chưa có tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá kết quả chung của
điều trị TRSM. Một số tác giả đã phân chia thành ba mức tốt (không có biến
chứng), trung bình (có biến chứng nhưng được điều trị khỏi) và xấu (có biến
chứng nặng nề, phải mổ lại hoặc tử vong). Trong nghiên cứu của Trần Nhật
Hùng, 94.17% tốt, 5.1% trung bình và 0.73% xấu [23].

23


1.4. TÌNH HÌNH CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TẮC RUỘT SAU
MỔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM
Fitz (1889) được coi là người đầu tiên nêu chẩn đoán và điều trị nội
khoa tắc ruột cấp. Nguyên tắc của điều trị bảo tồn đối với TRSM đã trở thành
kinh điển và được nhiều tác giả khẳng định vai trò quan trọng khi kết hợp với
điều trị phẫu thuật [35]
Năm 1938, Abbott và Johnston công bố có thể đặt được ống MillerAbbott qua đường mũi đến tá tràng và từ đó ống được đưa xuống tận điểm
tắc.
Năm 1978 Douglas đã sử dụng phương pháp nội soi để đưa ống sonde
và ruột non một các nhanh chóng [51]
Năm 1937, Noble đề nghị phương pháp phẫu thuật gấp quai ruột non để
dự phòng tắc ruột sau mổ. Phương pháp này về sau được cải tiến bởi Childs
và Phillips . Tại Việt Nam, Nguyễn Trinh Cơ đã có công trình nghiên cứu về


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status