SKKN sử dụng phương pháp “bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập môn khoa học của học sinh lớp 5 - Pdf 35

Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các
yêu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, phương
pháp dạy học. Phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương pháp dạy
học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù hợp thì mới
có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Bởi vậy, việc đổi mới
giáo dục trước hết là việc đổi mới phương pháp dạy học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng cần thiết trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay và nó cũng là yêu cầu “sát sườn” đối với từng trường học. “Bàn tay
nặn bột” là một trong những phương pháp dạy học mới đang được áp dụng rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới, là nhân tố quan trọng của việc cải tiến dạy học về kiến thức
khoa học tự nhiên ở bậc tiểu học.
"Bàn tay nặn bột" là một phương pháp giáo dục tiên tiến, giúp hình thành kiến
thức và nhân cách cho trẻ em. Vì thế, nó không chỉ phát huy hiệu quả ở cấp tiểu học
mà còn có thể áp dụng cho các cấp giáo dục cao hơn. Đây là một phương pháp dạy
học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là
đối với bậc tiểu học, khi học sinh đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến
thức khoa học, hình thành các khái niệm cơ bản về khoa học. Phương pháp dạy học
này tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải
đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó
khám phá ra bản chất vấn đề.
Thực tiễn dạy học môn khoa học ở trường tiểu học cho thấy, giáo viên còn gặp
nhiều khó khăn trong việc sử dụng các phương pháp dạy học. Các phương pháp dạy
học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học tập còn thụ động. Các thí nghiệm
trong bài còn mang tính chất minh họa. Giáo viên tự mình trình bày các thí nghiệm
thực hành để minh họa cho kiến thức của bài học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia
các hoạt động này để các em chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách chủ động, thỏa
mãn nhu cầu tìm tòi hiểu biết, óc tò mò khoa học của học sinh.Vì vậy các giờ học còn

pháp dạy học tích cực khác “Bàn tay nặn bột” luôn coi học sinh là trung tâm của quá
trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự
giúp đỡ của giáo viên.
Trên thực tế, phương pháp “Bàn tay nặn bột” không hoàn toàn là mới đối với
các giáo viên. Về cơ bản, đây là phương pháp tổng hợp của các phương pháp dạy học
trước đây mà giáo viên đã từng tiếp xúc như: phương pháp giảng dạy giải quyết vấn
đề, phương pháp dạy học tích cực... nhưng đây lại là một phương pháp dạy học đòi
hỏi sự linh hoạt, sáng tạo của giáo viên và học sinh.
Quá trình thực hiện giảng dạy trên lớp và dự giờ các tiết dạy của đồng nghiệp
tôi rút ra thực trạng chung như sau:
1) Thuận lợi:
Thuận lợi dễ nhìn thấy nhất là đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát luôn
đi đầu trong việc đổi mới phương pháp dạy học nên họ đã tiếp thu rất nhanh phương
pháp “Bàn tay nặn bột”. Nhiều giáo viên đã tự nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp
này trước đó nên việc lĩnh hội những điều cơ bản của “Bàn tay nặn bột” không có gì
khó khăn. Mặt khác, theo chỉ đạo của sở GD&ĐT Nghệ An cũng như Phòng GD&ĐT
Quỳnh Lưu, giáo viên có thể lựa chọn một số bài dạy để sử dụng phương pháp này
chứ không phải là tất cả bài dạy của bộ môn phải thực hiện.
Việc ứng dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học đòi hỏi giáo viên
phải đầu tư, suy nghĩ nhiều hơn vào bài giảng, từ đó giúp cho giáo viên nâng cao kỹ
năng tổ chức, thực hành thí nghiệm; còn đối với học sinh thì vui hơn, tích cực hơn.
Tiết học từ đó trở nên sinh động, tất cả cùng làm việc với nhau, hài hòa giữa thầy và
trò. Bên cạnh khơi dậy niềm say mê, hứng thú, giáo viên còn tạo được nhiều cảm xúc
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

2


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

thích mới đầu tư thời gian, công sức cho phương pháp đổi mới này.
Một khó khăn nữa trong việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” này là số
lượng học sinh/lớp học của trường quá đông. Sĩ số học sinh trong lớp đông sẽ khó
khăn cho việc tổ chức học tập theo nhóm, hoạt động tham quan, dã ngoại, điều tra
thực tế cho học sinh. Đây còn là một khó khăn lớn không chỉ có ở trường Tiểu học
Cầu Giát chúng tôi mà là khó khăn chung.
Ở một số bài lượng kiến thức cần truyền tải cho học sinh tương đối nhiều, thời

Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

3


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

gian 35- 40 phút dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" là không đủ, đa phần
kéo dài hơn so với quy định nên ảnh hưởng đến các tiết học khác. Ngoài ra, thiết bị
phục vụ cho thí nghiệm ở các trường hiện nay chưa đầy đủ, việc sáng tạo thiết kế các
đồ dùng dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" còn gặp nhiều khó khăn với cả
giáo viên và học sinh.
Dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" những học sinh có học lực dưới
trung bình sẽ khó tiếp thu bài giảng, các em chưa nắm chắc lý thuyết của bài học sẽ
vất vả trong thực hành, thực nghiệm. Các em khó hòa nhập với học sinh khá giỏi khi
tham gia thảo luận nhóm.
Ngoài ra còn có một số khó khăn sau:
- Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mới triển khai,
thời gian tập huấn, nghiên cứu còn hạn chế nên trong việc thực hiện còn gặp nhiều
khó khăn.
- Nguồn tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tòi, khám phá của học sinh còn hạn

huống cho phép tìm tòi một cách có lí lẽ; giáo viên hướng dẫn học sinh chứ không
làm thay; giáo viên giúp đỡ học sinh làm sáng tỏ và thảo luận quan điểm của mình,
đồng thời chú ý tuân thủ việc nắm bắt ngôn ngữ; giáo viên cho học sinh phát biểu
những kết luận có ý nghĩa từ các kết quả thu được, đối chiếu chúng với các kiến thức
khoa học; giáo viên điều hành hướng dẫn học sinh tập luyện để tiến bộ dần.
- Các buổi học ở lớp được tổ chức xung quanh các chủ đề theo hướng tiến trình
có thể đồng thời giúp học sinh tiếp thu được kiến thức, hiểu được phương pháp tiến
hành và rèn luyện được ngôn ngữ viết và nói. Một thời lượng đủ cần thiết cho phép
nắm bắt, tái tạo và tiếp thu một cách bền vững nội dung kiến thức.
2. Giáo viên phải nắm được các bước và cách thức tiến hành các bước của
tiến trình dạy học:
Hiện nay, có nhiều tài liệu trình bày khác nhau về số bước của quy trình dạy
học theo phương pháp Bàn tay nặn bột. Có tài liệu trình bày theo 11 bước, 8 bước
nhưng cũng có tài liệu trình bày theo 5 bước (thực chất là sự ghép gộp các bước từ
quy trình 11 bước).
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, tôi đã lựa chọn tiến trình sư phạm của phương
pháp Bàn tay nặn bột theo 5 bước để dễ thể hiện hơn trên giáo án, khi trao đổi thảo
luận cùng đồng nghiệp và để thuận tiện hơn khi trực tiếp hướng dẫn tổ chức các hoạt
động của học sinh.
Sau đây tôi xin trình bày cụ thể tiến trình sư phạm của phương pháp Bàn tay
nặn bột theo 5 bước, với mỗi bước có kèm theo ví dụ minh họa mà thực tế tôi đã thực
hiện để hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức như sau:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
- Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là khâu quan trọng đầu tiên
để tạo tình huống xuất phát như một cách nhập vào bài dạy. Tình huống xuất phát
càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ.
- Khi đưa ra tình huống xuất phát thì nhiệm vụ của học sinh là quan sát suy
nghĩ còn giáo viên chủ động đưa ra một tình huống mở có liên quan đến vấn đề khoa
học đặt ra.
- Tình huống xuất phát hay câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo ngắn gọn, gần

làm phân tán học sinh (cắt tạm thời suy nghĩ của học sinh) do học sinh tưởng rằng
giáo viên đưa ra câu hỏi mới.
- Câu hỏi không nên quá dài vì như vậy học sinh sẽ không thể nắm bắt yêu cầu
của câu hỏi.
- Đối với các câu hỏi gợi ý, nên đặt câu hỏi ngắn, yêu cầu trong một phạm vi
hẹp mà mình muốn gợi ý cho học sinh. Nếu là những câu hỏi gợi ý cho một nhóm khi
các học sinh đang thảo luận thì chỉ nên hỏi với một âm lượng vừa đủ cho nhóm này
nghe để tránh phân tán suy nghĩ của các nhóm khác không liên quan.
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu
- Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của phương
pháp BTNB. Biểu tượng ban đầu của học sinh thường là quan niệm hay khái quát
chung chung về sự vật hiện tượng, có thể sai hoặc chưa thực sự chính xác về mặt khoa
học
- Để giúp học sinh mạnh dạn tự tin khi bộc lộ quan niệm ban đầu, tôi luôn chú
ý các vấn đề sau:
+ Khuyến khích tất cả học sinh đều có thói quen và trách nhiệm trình bày ý
kiến của mình.
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

6


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

+ Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu, tôi yêu cầu nhiều hình
thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng
cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ trong quyển vở thí nghiệm của mình. (Chú ý:
Phương pháp Bàn tay nặn bột sử dụng “vở thực hành” như là một phương tiện để rèn
luyện ngôn ngữ viết cho học sinh trong quá trình học tập các kiến thức khoa học, tập


7


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, tôi giúp
học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó, từ đó đề xuất các thí nghiệm. Ở
bước này, tôi tiến hành qua 3 bước như sau:
+ Trước hết tôi khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong
lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung
bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các biểu tượng
ban đầu tiêu biểu trong số hàng chục biểu tượng của học sinh một cách nhanh chóng
theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm
giúp học sinh đề xuất các câu hỏi (ở bước 3) từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy
học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề
xuất câu hỏi của học sinh gặp khó khăn.
Sau đây là cách xử lý của tôi trong các tình huống cụ thể như sau:
* Đối với các biểu tượng ban đầu được học sinh biểu hiện bằng lời, tôi đã chọn
lựa một số ý kiến tiêu biểu và ghi chú lên bảng (Chọn một góc thích hợp trên bảng để
viết các biểu tượng ban đầu của học sinh). Khuyến khích các học sinh có ý kiến khác
so với các ý kiến đã được nêu bằng cách đưa ra các gợi ý như:
- Em nào có ý kiến khác với ý kiến trên ?
- Ngoài các ý kiến vừa rồi, em nào có ý kiến khác?… Những gợi ý như vậy vừa
kích thích các học sinh có ý kiến khác nêu lên quan điểm của mình đồng thời tránh
mất thời gian với các ý kiến trùng nhau của các học sinh.
* Đối với biểu tượng ban đầu được học sinh đưa ra bằng hình vẽ trong vở thí
nghiệm, tôi chọn một số học sinh có biểu tượng ban đầu tiêu biểu để yêu cầu vẽ lại
trên bảng hoặc mượn một số cuốn vở rồi vẽ lại nhanh trên bảng hình vẽ của học sinh

chép khác. Giữ nguyên các biểu tượng ban đầu này để đối chiếu và so sánh sau khi
hình thành kiến thức cho học sinh ở bước 5 của tiến trình phương pháp.
+ Sau khi lựa chọn được một số biểu tượng ban đầu khác biệt của học sinh theo
ý đồ dạy học, tôi tiếp tục cho học sinh đề suất các câu hỏi nghi vấn, những băn khoăn,
thắc mắc cần tìm hiểu về đối tượng.
Ví dụ : Khi dạy kiến thức: Cấu tạo bên trong của hạt.
Tôi hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi nghi vấn như sau:
- Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ không ?
- Có phải có cây đậu nhỏ nở hoa bên trong hạt đậu không ?
- Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ có rễ không ?
- Sau khi học sinh đề suất các câu khỏi nghi vấn, tôi gợi ý cho học sinh so sánh
các biểu tượng giống (đồng thuận với các ý kiến đại diện) hoặc khác nhau (không
nhất trí giữa các ý kiến) của các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản
đó, tôi giúp học sinh đề xuất các câu hỏi. Như vậy việc làm rõ các điểm khác nhau
giữa các ý kiến ban đầu trước khi học kiến thức của học sinh là một mấu chốt quan
trọng. Các biểu tượng ban đầu càng khác nhau thì học sinh càng bị kích thích ham
muốn tìm tòi chân lý (kiến thức).
- Đôi khi có những đặc điểm khác biệt rõ rệt nhưng lại không liên quan đến
kiến thức bài học được học sinh nêu ra thì tôi khéo léo giải thích cho học sinh ý kiến
đó rất thú vị nhưng trong khuôn khổ kiến thức của lớp mà các em đang học chưa đề
cập đến vấn đề đó bằng cách đại loại như: "Ý kiến của em rất thú vị nhưng trong
chương trình học ở lớp 5 của chúng ta chưa đề cập tới. Các em sẽ được tìm hiểu ở các
bậc học cao hơn (hay các lớp sau)".
c. Đề xuất thí nghiệm nghiên cứu:
- Khi đặt ra câu hỏi rồi, khi đề ra hình vẽ rồi thì bây giờ học sinh phải đề ra
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

9



phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để học sinh tự rút ra nhận xét
và loại bỏ phương án.
- Nếu ý kiến của học sinh nêu lên có ý đúng nhưng ngôn từ chưa chuẩn xác
hoặc diễn đạt chưa rõ thì tôi gợi ý và từng bước giúp học sinh hoàn thiện diễn đạt.
Ngoài ra có thể yêu cầu các học sinh khác chỉnh sửa cho rõ ý. Đây là một vấn đề
quan trọng trong việc rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh .
- Trường hợp học sinh đưa ra ngay thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu đúng nhưng
vẫn còn nhiều phương án khác khả thi thì tôi tiếp tục hỏi các học sinh khác để làm
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

10


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

phong phú phương án tìm câu trả lời. Tôi nhận xét trực tiếp nhưng yêu cầu các học
sinh khác cho ý kiến về phương pháp mà học sinh đó nêu ra. Phương pháp Bàn tay
nặn bột khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến của nhau hơn là của giáo viên nhận
xét.
- Sau khi học sinh đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, tôi nêu
nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn.
Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
thích hợp, tôi gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án nếu gợi ý mà học sinh chưa nghĩ
ra.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
Để nâng cao hiệu quả thực hành thí nghiệm theo tinh thần của phương pháp
BTNB thì cần có phòng thí nghiệm riêng và có tử đựng dụng cụ, vật liệu thí nghiệm
nhưng do nhà trường hiện nay chưa có phòng thí nghiệm riêng nên tôi đã mạnh dạn
tham mưu với nhà trường trang bị thêm cho mỗi lớp một tủ đựng đồ dùng dạy học cố


giáo viên phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm
nghiên cứu, đặc biệt là các thí nghiệm được thực hiện với các dụng cụ, vật liệu thí
nghiệm giống nhau nhưng nếu bố trí thí nghiệm không hợp lý sẽ không thu được kết
quả thí nghiệm như ý.
Lưu ý học sinh ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hành thí
nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết
luận sau đó ghi vào vở thí nghiệm. Phần ghi chép này, tôi để học sinh ghi chép tự do,
không nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp mới làm quen
với phương pháp Bàn tay nặn bột. Đối với các thí nghiệm phức tạp thì tôi đã thiết kế
một mẫu sẵn để học sinh điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm.
Ví dụ : Khi dạy kiến thức: Cấu tạo bên trong của hạt.
- Sau khi quan sát, tôi yêu cầu học sinh vẽ lại hình vẽ đã quan sát và ghi chú
thích các bộ phận bên trong của hạt đậu.
- Nếu học sinh chưa chú thích đúng hình vẽ quan sát thì tôi không vội chỉnh sửa
ngôn ngữ. Học sinh quan sát gì,chú thích gì thì đó là quyền của học sinh, tôi không
chỉnh sửa.
- Qua việc quan sát thì học sinh tự làm việc đó.
- Sau khi cả lớp thực hiện xong quan sát hình vẽ, chú thích xong hình vẽ thì tôi
cho học sinh quan sát thêm một bức tranh phóng to cấu tạo bên trong của hạt đậu có
chú thích và phóng lên màn hình máy chiếu … hoặc cho học sinh quan sát hình vẽ
trong sách giáo khoa.
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được
giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa
chuẩn xác một cách khoa học. Tôi tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi
vào vở coi như là kiến thức của bài học.
Trước khi kết luận chung, tôi khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho
học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu) trước khi
học kiến thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thí nghiệm

- GV chủ động đưa ra một tình
huống mở có liên quan đến vấn đề
khoa học đặt ra.
- Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo
ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu, phù
hợp với trình độ, gây mâu thuẫn
nhận thức và kích thích tính tò mò,
thích tìm tòi, nghiên cứu…

- Bộc lộ quan niệm ban đầu
nêu những suy nghĩ từ đó
hình thành câu hỏi, giả
thuyết. …..bằng nhiều cách
nói, viết, vẽ.

- GV cần: Khuyến khích HS nêu
những suy nghĩ….bằng nhiều cách
nói, viết, vẽ.
- GV quan sát nhanh để tìm các
hình vẽ khác biệt.

Đây là bước quan trọng - GV không nhất thiết phải chú ý
đặc trưng của PP BTNB.
tới các quan niệm đúng, cần phải
chú trọng đến các quan niệm sai.
Bước 3:

a. Đề xuất câu hỏi

- GV giúp học sinh đề xuất câu hỏi


tâm đến sự khác biệt giữa các ý
kiến).
Bước 4:
Tiến hành thí
nghiệm tìm tòi nghiên cứu

HS hình dung có thể kiểm
chứng các giả thuyết bằng…

- Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí
nghiệm sau đó mới phát các dụng
cụ và vật liệu thí nghiệm

…thí nghiệm (Ưu tiên
thí nghiệm trực tiếp trên vật - GV bao quát và nhắc nhở các
nhóm chưa thực hiện, hoặc thực
thật).
hiện sai…
…quan sát
…điều tra
…nghiên cứu tài liệu.

- GV tổ chức việc đối chiếu các ý
kiến sau một thời gian tạm đủ mà
HS có thể suy nghĩ
- GV khẳng định lại các ý kiến về
phương pháp kiểm chứng giả
thuyết mà HS đề xuất.


HS kiểm tra lại tính hợp lý
- GV động viên HS và yêu cầu bắt
của các giả thuyết mà mình
đầu lại tiến trình nghiên cứu.
đưa ra.
- GV giúp HS lựa chọn các lý luận
*Nếu giả thuyết sai: thì quay
và hình thành kết luận.
lại bước 3.
- Sau khi thực hiện nghiên cứu,
* Nếu giả thuyết đúng:
các câu hỏi dần dần được giải
Thì kết luận và ghi nhận quyết, các giả thuyết dần dần được
chúng.
kiểm chứng tuy nhiên vẫn chưa có
hệ thống hoặc chưa chính xác một
cách khoa học.
- GV có trách nhiệm tóm tắt, kết
luận và hệ thống lại để học sinh
ghi vào vở coi như là kiến thức bài
học.
- GV khắc sâu kiến thức bằng
cách đối chiếu biểu tượng ban đầu.

3. Một số giáo án mà tôi đã thực hiện như sau:
Môn: Khoa học – Lớp 5
Bài 15: GẠCH, NGÓI.(1 tiết)
Mục tiêu:
Sau bài học, em:
- Xác định được một số tính chất và công dụng của gạch, ngói.

* GV cho HS xem hình ảnh về quy trình sản xuất gạch, ngói.
HĐ 2: Thí nghiệm “Gạch, ngói có tính chất gì?”.
- Dự đoán kết quả xảy ra khi thả viên ngói (gạch) vào chậu nước.
- Tiến hành thí nghiệm: Thả viên ngói vào chậu nước.
- Quan sát hiện tượng xảy ra. Giải thích tại sao?
- Thống nhất kết quả và ghi vào vở thực hành.

- Đại diện các nhóm trình bày trước lớp.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
*GV thả một miếng ngói từ trên cao xuống nền nhà. HS quan sát, trả lời:
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

16


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

- Khi thả miếng ngói xuống nền nhà thì hiện - Vở ra nhiều miếng nhỏ.
tượng gì xảy ra?
- Tại sao chúng bị vỡ?

- Vì chúng cứng nhưng giòn.

- GV chốt kiến thức về tính chất của gạch, ngói.
3. Đọc và trả lời câu hỏi.
- Đọc kĩ nội dung phần 3a, tr 74-75, SHDH .
- Trả lời các câu hỏi sau và ghi vào vở thực hành.
- Gạch, ngói được làm từ vật liệu gì?
- Gạch, ngói có tính chất gì?


Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

17


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

Trả lời câu hỏi sau:
- Gạch không nung là gì?
- Tại sao Chính phủ khuyến khích xóa bỏ các lò gạch
thủ công thay thế bằng sản xuất gạch không nung?
Việc 1: Chia sẻ hiểu biết của em với các bạn trong nhóm.
Việc 2: Cả nhóm trao đổi, thống nhất ý kiến.
Báo cáo với thầy/cô giáo kết quả những việc các em đã làm.

* GV chốt nội dung bài học.
* Cho HS xem một số hình ảnh về sự ô nhiễm của các lò nung gạch, ngói và quy trình
sản xuất gạch không nung.
C. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
- Tìm hiểu về những viên ngói và gạch được sử dụng làm gì ở gia đình em.
- Trao đổi với người thân về tính chất của gạch, ngói.
Khoa học - Lớp 5
Bài 25: SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG ĐIỆN.
(Tiết 3)
Mục tiêu:
Sau bài học, em:
- Làm được thí nghiệm đơn giản trên mạch điện pin để phát hiện vật dẫn điện hoặc
vật cách điện.

Dự đoán

Kết quả
Đèn sáng

Kết luận

Đèn không
sáng

- Vật bằng
nhựa

......................... ......................... ......................... .........................

- Vật bằng đồng

......................... ......................... ......................... .........................

-.....................

......................... ......................... ......................... .........................

-.....................

......................... ......................... ......................... .........................

-.....................

......................... ......................... ......................... .........................

Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

=> GV cho học sinh xem hình ảnh minh họa, hướng dẫn làm công tắc điện.
HĐ 5: Trò chơi “Rung chuông vàng”.
- Tổ chức cho học sinh chơi trả lời 5 câu hỏi. Sau 10 giây, trả lời đúng mỗi câu được
thưởng 1 bông hoa màu đỏ. Nếu trả lời sai ở câu nào thì bạn đó dừng cuộc chơi.
Câu 1: Những vật làm bằng chất liệu nào cho dòng điện chạy qua?
A. Cao su, nhựa, gỗ.
B. Sắt, nhôm, đồng.
C. Thủy tinh, gạch, sứ.
Câu 2: Ở phích cắm và dây điện, bộ phận nào cách điện?
A. Vỏ nhựa phích cắm và vỏ bọc ngoài của dây điện.
B. Cả vỏ bọc và lõi kim loại.
C. Phần lõi của dây điện.
Câu 3: Cái ngắt điện (công tắc) có vai trò gì?
A. Cao su, nhựa, gỗ.
B. Sắt, nhôm, đồng.
C. Thủy tinh, gạch, sứ.
Câu 4: Bắc nối dây điện với bóng đèn và pin nhưng vẫn không sáng. Vì sao?
A. Bóng đèn bị cháy hoặc pin hết.
B. Dây dẫn bị đứt.
C. Nối dây dẫn còn cả vỏ nhựa cách điên.
D. Tất cả các ý trên đều đúng
Câu 5: Vật cho dòng điên chạy qua gọi là gì?
A. Vật cách điện.
B. Vật dẫn điên.
C. Cả hai ý trên đều sai.
HĐ 6: Củng cố - Tổng kết.
* GV hệ thống kiến thức.

.........................................

.........................................

.........................................

.........................................

.........................................

Môn : Khoa học - Lớp 5
Bài 28: CÂY CON MỌC LÊN TỪ HẠT (1 tiết)
Mục tiêu:
Sau bài học, em:
- Nêu được sơ lược quá trình hạt mọc thành cây con.
- Kể được tên một số cây mọc lên từ hạt.
- Chỉ được các bộ phận của hạt trên vật thật và hình vẽ.
Chuẩn bị :
- HS : Bảng con , bút dạ ; ươm một số hạt đậu phộng (lạc) hoặc đậu xanh vào đất ẩm
khoảng 4-5 ngày trước khi mang đến lớp để học .
- GV: Máy tính, Ti vi.

* Khởi động:
1. GV đọc cho HS nghe bài: “Mấy hạt ngô”.
- Bài thơ các em vừa được nghe nhắc đến tên loại cây nào?
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

22



HĐ 2: Quan sát và trao đổi.
- Quan sát, đọc thông tin (Tr 64-SHDH).
- Nêu quá trình phát triển của cây mướp từ H1 -> H7.
- Nói lại với bạn về quá trình phát triển của cây mướp.
Người thực hiện: Hồ Mạnh Hùng - Giáo viên trường Tiểu học Cầu Giát - huyện Quỳnh Lưu

23


Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5

- Bổ sung, góp ý cho nhau.
- Trao đổi về quá trình phát triển của cây mướp.
- Nhóm trưởng tổ chức thảo luận và dự đoán xem bên trong hạt mướp có gì
để hạt nảy mầm.
- Thống nhất kết quả, thư kí ghi lại kết quả thảo luận.
* GV cho HS xem cấu tạo của hạt và vòng đời của cây mướp.
HĐ 3: Quan sát và chỉ các bộ phận của hạt.
- Quan sát kĩ hình 8.
- Chỉ trên hình vẽ vỏ, phôi và chất dinh dưỡng của hạt.
- Nhóm trưởng tổ chức chỉ cho nhau xem các bộ phận của hạt.
- Thống nhất và khi lại kết quả: hạt gồm những bộ phận nào?

- Ban học tập tổ chức đại diện các nhóm lên bảng chỉ hình và gọi tên các
bộ phận của hạt.
- Trả lời câu hỏi: Trong hạt, bộ phận nào giúp hạt nảy mầm?
HĐ 4: Đọc và trả lời.
- Đọc thông tin (tr 65-SHDH)
- Viết vào vở tên một số cây có thể mọc lên từ hạt mà em biết.




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status