Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre - Pdf 36

LỜI MỞ ĐẦU
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận:
"Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với c ơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân n ào". Quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân đ ược pháp luật quy định là cơ sở pháp lý cần thiết
để công dân thực hiện tốt quyền l àm chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời cũng qua đó
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo l à nghĩa vụ, trách nhiệm của các c ơ quan nhà
nước. Việc giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định t ình hình chính trị
xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ tr ước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân v à đã ban
hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản pháp luậ t quy định về vấn đề này, trong
đó có Pháp lệnh Khiếu nại - tố cáo của công dân năm 1991; Luật Khiếu nại - tố
cáo năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại - tố cáo
năm 2004 và năm 2005; Pháp l ệnh Thủ tục giải quyết các vụ án h ành chính năm
1996 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2006). Như vậy, với việc ban hành các
văn bản pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện thuận
lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo; l àm cơ sở cho các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu tố.
Khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai l à một hiện tượng xảy ra phổ biến
trong xã hội. Đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị tr ường, cơ chế
chính sách về đất đai ngày càng mở rộng hơn, nhất là sự phát triển của thị
trường bất động sản làm cho đất đai ngày càng có giá trị cao. Bên cạnh đó, trong
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, yêu cầu về đất để xây dựng
những công trình, dự án lớn… ngày càng nhiều vì thế tranh chấp đất đai phát
sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp về
mặt nội dung.


mong qúi thầy cô giúp đỡ chỉ dẫn. Xin chân thành cám ơn!


PHẦN 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỀ ÁN
I. QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG

Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến
pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền v à lợi ích của mình khi bị
xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ x ã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là
một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nh à
nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai tr ò quan trọng trong quản lý
nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nh à nước và nhân dân.
Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng v à Nhà nước kiểm tra tính đúng
đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do m ình ban hành, từ đó có
cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân l à một vấn đề được
Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc khiếu nại, tố cáo v à giải
quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nh à nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức và tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc h ơn trong
giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nh à nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005.
Để phát huy và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cả hệ thống chính trị, Ban Bí th ư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số
09-CT/TW ngày 06 tháng 3 năm 2002, về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay; đ ã nhấn mạnh đến trách nhiệm
của Lãnh đạo cấp ủy và chính quyền các cấp trong công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Chỉ thị yêu cầu: “Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải

trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; chủ động xử lý các
trường hợp khiếu kiện đông người, phức tạp, không để xảy ra t ình trạng khiếu
kiện đông người, vượt cấp lên Trung ương.
II. CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC
Nhằm thể chế hoá quan điểm, đ ường lối của Đảng về giải quyết khiếu nại,
tố cáo, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực n ày, cụ
thể: Pháp lệnh xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 1981; Pháp lệnh Khiếu nại,
tố cáo năm 1991; Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số


điều của Luật khiếu nại, tố cáo 1998 năm 2004; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật khiếu nại, tố cáo ng ày 15/6/2004 năm 2005.
Qua các lần ban hành và sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo thể hiện
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn đ ược đổi mới để phù hợp với sự phát
triển của xã hội và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ng ày
càng được Nhà nước ta đề cao.
Bên cạnh đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng được Nhà nước ta
đề cập ở một số văn bản pháp luật khác nh ư: Luật Đất đai năm 2003; Nghị định
số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 c ủa Chính Phủ, quy định và
hướng dẫn một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo v à các Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị số 36/2004/CT -TTg ngày 27
tháng 10 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ, về việc chấn chỉnh v à tăng cường
trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính Nhà nước trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo; Nghị định số 1 97/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004
của Chính Phủ, về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2004 c ủa Chính Phủ, về
thi hành Luật Đất đai; Pháp lệnh số 29/2006/PL -UBTVQH11 ngày 04 tháng 5
năm 2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án h ành chính; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25 tháng 5 năm 2007 c ủa Chính Phủ, quy định bổ sung về việc cấp giấy

cơ quan của huyện, tỉnh và trung ương để khiếu nại khá nhiều. Có đo àn đã dùng
băng ron, khẩu hiệu đi diễn hành trên đường phố nội ô Thị xã và ở lại nhiều
ngày tại Trụ sở tiếp dân của tỉnh v à Trung ương để đòi yêu sách, gây áp lực đối
với Nhà nước. Trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến nay, nhất là những năm
1998 đến 2000, tình hình khiếu kiện và tranh chấp trong lĩnh vực đất đai diễn ra
tương đối phức tạp gây mất ổn định cho t ình hình an ninh trật tự của địa phương
cũng như các cơ quan trung ương có tr ụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội.
Trước tình hình trên, để đánh giá đúng thực trạng t ình hình khiếu nại, tố
cáo của công dân trên địa bàn tỉnh Bến Tre và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực đất đai l à
nhiệm vụ cấp bách và hết sức cần thiết. Vì thế, khi thực hiện đề án “Nâng cao
hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai của c ơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre” nhằm nghiên cứu đề xuất một số


giải pháp góp phần tháo gỡ những v ướng mắc, tồn tại, bất cập trong công tác
tiếp dân và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai tr ên địa bàn
tỉnh Bến Tre đang gặp nhiều khó khăn m à cụ thể trước mắt phải tập trung giải
quyết dứt điểm các vụ khiếu nại phức tạp, kéo d ài và khiếu nại đông người liên
quan đến việc thu hồi đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Qua đánh giá thực trạng của Đề án sẽ chỉ ra những hạn chế, yếu kém
trong quản lý, điều hành của các cấp, các ngành để từ đó đề xuất biện pháp khắc
phục, chấn chỉnh nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nh à nước về công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đề án đi sâu đánh giá một cách to àn diện về
thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tr ên địa bàn tỉnh Bến Tre để đề
xuất một số giải pháp cụ thể để củng cố, hoàn thiện tổ chức, bộ máy tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng nh ư chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ
làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại tỉnh Bến Tre; phân
tích những nội dung, tìm ra những nguyên nhân tồn tại, những bất cập của chính

diễn ra từ những năm 1990, sau khi tập đo àn sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp
tan rã. Từ năm 1997 đến năm 2001, t ình hình khiếu kiện đòi lại đất cũ đã đưa
vào tập đoàn sản xuất (phần lớn là ở huyện Ba Tri, Mỏ Cày, Giồng Trôm và
Thạnh Phú), đất trưng thu, trưng dụng, đất ở nhờ, ở đậu, đất giải toả để thực hiện
các công trình, dự án... có chiều hướng diễn biến gay gắt, phức tạp h ơn và có lúc


trở thành điểm nóng; công dân khiếu kiện tập trung đông người, tổ chức thành
đoàn dùng băng ron, khẩu hiệu đi diễu hành trên đường phố thị xã (nay là Thành
phố), đến nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và trụ sở các cơ
quan Trung ương tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, nhất là vào thời điểm
có những sự kiện chính trị, kinh tế quan trọng nh ư Đại hội Đảng các cấp, các kỳ
họp của Quốc Hội, các sự kiện chính trị, các cuộc hội thảo kinh tế mang tính
quốc tế... làm cho tình hình an ninh trật tự tại địa phương và những nơi công dân
đến khiếu kiện bị ảnh hưởng nghiêm trọng (Năm 1999 có 06 đoàn khiếu kiện,
đoàn đông nhất trên 350 người; Năm 2000 có 05 đoàn, từ 30 đến 120 người;
Năm 2001 có 04 đoàn, từ 60 đến 80 người và trong 09 tháng đầu năm 2008 có
03 lượt quần chúng khiếu kiện đông người, vượt cấp lên Thành phố Hồ Chí
Minh, từ 16 đến 25 người...). nói thêm năm 2009
Chỉ tính riêng từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đến ngày 01 tháng 10 năm
2008, toàn tỉnh đã thụ lý 1.718 vụ khiếu nại, kết quả giải quyết l à 1.183 vụ/1.718
vụ, đạt tỉ lệ 68,9% (năm 2006 to àn tỉnh giải quyết 1.156 vụ/2.293 vụ, đạt tỷ lệ
50,41%; năm 2007 giải quyết 2.619 vụ/3.583 vụ, đạt tỷ lệ 73,9%). Tr ước tình
hình trên, các cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã
dành nhiều thời gian cho công tác lãnh chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo, củng
cố công tác tiếp dân, nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo từ tỉnh đến c ơ sở;
tổ chức tiếp xúc, đối thoại với công dân khiếu kiện theo định kỳ v à đột xuất,
thông qua đó công khai nội dung giải quyết vụ việc và giải thích các quy định
của pháp luật nên kết quả giải quyết thuyết phục đ ược người dân, góp phần hạn
chế tình trạng khiếu kiện; Uỷ ban nhân dân tỉnh v à Uỷ ban nhân dân các huyện,

sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 v à 2005; và Nghị định số
136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006, quy đ ịnh trách nhiệm công tác
tiếp công dân trước hết và chủ yếu thuộc về Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Tại
Điều 74, Điều 75 và Điều 76 của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định cụ thể về tổ
chức tiếp công dân.
Công tác tiếp công dân với vai trò là việc làm thể hiện mối liên hệ trực tiếp
giữa nhân dân với Nhà nước, thể hiện bản chất của Nh à nước của dân, do dân và
vì dân, vì vậy công tác tiếp công dân được các cấp uỷ đảng, chính quyền, các sở
ban ngành tỉnh Bến Tre rất quan tâm. Hầu hết các c ơ quan, đơn vị từ cấp tỉnh
đến cấp xã đã bố trí phòng tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân đ ược bố trí
thuận lợi để công dân đến trình bày, gửi đơn khiếu nại, tố cáo. Niêm yết công
khai nội quy tiếp công dân, lịch tiếp công dân tại n ơi tiếp công dân. Phương tiện


làm việc được trang bị đầy đủ như: máy vi tính, sổ sách ghi chép, bàn ghế, nước
uống… Đặc biệt là việc bố trí hộp thư góp ý tại nơi tiếp công dân nhằm tiếp
nhận và xử lý kịp thời những phản ánh của công dân. Việc tiếp công dân đ ược
ghi chép vào Sổ Tiếp công dân một cách đầy đủ v à lưu giữ cẩn thận.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có bố trí lịch tiếp công dân định kỳ theo
quy định của pháp luật, ngoài ra còn bố trí tiếp công dân đột xuất v à tiếp tại cơ
sở nơi công dân khiếu nại, tố cáo. Đa số các đơn vị đều bố trí bộ phận chuyên
trách hoặc không chuyên trách làm công tác tiếp công dân, tiếp công dân v ào
các ngày làm việc trong tuần. Phần lớn cán bộ làm công tác tiếp công dân có thái
độ làm việc nhã nhặn, ân cần, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao, có kiến
thức, am hiểu chính sách của Đảng v à pháp luật của Nhà nước trong việc hướng
dẫn, giải thích cho công dân đến khiếu nại, tố cáo góp phần tuy ên truyền pháp
luật trong nhân dân để người dân hiểu và làm đúng pháp luật. Lãnh đạo các cấp,
các ngành và cán bộ làm công tác tiếp công dân thông qua hình thức tiếp dân,
đối thoại đã làm tốt công tác giải thích, truyền đạt các chủ tr ương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước nói chung và từng vụ việc cụ thể nói riêng, qua đó có

nghiệp vụ.
Về mặt pháp lý, Luật Khiếu nại, tố cáo cũng đ ã quy định một số nguyên
tắc chung nhất mà không quy định một trình tự, thủ tục chi tiết về hoạt động
này, không có một khuôn mẫu cố định cho mọi trường hợp, mà còn tuỳ từng
điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng cụ thể để người tiếp công dân có cách thức ph ù
hợp nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc chung trên và đạt được mục đích mà
pháp luật đã đề ra. Chính vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ của mình, cán bộ tiếp
công dân phải thành thạo về nghiệp vụ, am hiểu sâu sắc về pháp luật cho đến
văn hoá ứng xử, nghệ thuật giao tiếp v à tâm lý học. Như vậy, có thể thấy rằng
bố trí cán bộ tiếp dân có đầy đủ yếu tố tr ên là. Ngoài ra, việc thực hiện chế độ
đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ tiếp dân cần đ ược quan tâm đúng mức hơn nhằm
khuyến khích đội ngũ này cống hiến tâm huyết và gắn bó với công tác tiếp dân.
2. Công tác tiếp nhận và xử lý đơn thu khiếu nại, tố cáo
Mỗi năm, các cơ quan, đơn vị của tỉnh Bến Tre tiếp nhận h àng nghìn đơn
thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh… từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó
có những vụ việc thuộc thẩm quyền giải qu yết, có những vụ việc thuộc thẩm
quyền của các cơ quan khác; tính chất, mức độ phản ánh trong nội dung đ ơn
khiếu nại, tố cáo cũng khác nhau, có những vụ việc đ ơn giản, những yêu cầu


thông thường, nhưng cũng có những nội dung nghi êm trọng, khẩn cấp. Dù ở
mức độ nào thì khi tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo các cơ quan chức năng có
trách nhiệm phân loại, xem xét và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Nó thể hiện
bản chất của Nhà nước vì dân, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân.
Xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo cũng là một khâu quan trọng trong quá
trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, xử lý kịp thời, chính xác đ ơn
khiếu nại, tố cáo sẽ là tiền đề cho các bước tiếp theo của quá trình giải quyết.
Trước hết, xử lý đơn thư là để xác định thẩm quyền, làm cơ sở cho việc thụ lý và
giải quyết. Đồng thời, xử lý đ ơn thư cũng có ý nghĩa quan trọng đối với công tác
quản lý nhà nước nói chung và giải quyết khiếu nại, tố cáo nói ri êng. Thông qua

đơn thư không kịp thời theo đúng quy định của pháp luật, cán bộ trực tiếp chỉ
xem qua loa nội dung trình bày trong đơn dẫn đến việc đề xuất xử lý không
chính xác, thậm chí còn có trường hợp chưa phân biệt được nội dung đơn là
khiếu nại, hay tố cáo hoặc kiến nghị, phản ảnh dẫn đến nhận định, đánh giá, xác
định sai nội dung của vụ việc, sai thẩm quyền giải quyết l àm cho vụ việc thêm
kéo dài.
3. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
Từ năm 2008 đến nay, tổng số vụ việc khiếu nại, tố cáo đã được các cấp,
các ngành có thẩm quyền giải quyết là 6.496 vụ, cụ thể:
Năm 2008, đã giải quyết: 2.555 vụ (đạt tỷ lệ 80,52%).
Năm 2009, đã giải quyết: 3.147 vụ (đạt tỷ lệ 81,1%).
06 tháng đầu năm 2010, đã giải quyết: 794 vụ (đạt tỷ lệ 51,8%).
Từ số liệu trên nhận thấy, tỷ lệ giải quyết số vụ việc khiếu nại, tố cáo về
lĩnh vực đất đai nhìn chung còn thấp so với vụ việc thuộc thẩm quyền của các
cấp, các ngành. Để làm rõ vấn đề này cần nhận xét, đánh giá về thực trạng công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh những năm vừa qua.
II. NHẬN XÉT – ĐÁNH GIÁ
1. Nội dung khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai
Qua tổng kết đánh giá hàng năm cho thấy nội dung khiếu nại, tố cáo về đất
đai ở tỉnh Bến Tre chủ yếu tập trung v ào các vấn đề sau:
1.1. Bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định c ư:

Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ
tập đông người; thường xảy ra đối với những dự án có thu hồi diện tích đất lớn


để bố trí phát triển các dự án, ng ười có đất bị thu hồi khiếu nại về thực hiện
không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền b ù thấp, không đáp
ứng yêu cầu ổn định cuộc sống… Ngoài ra, còn một số khiếu nại liên đới ,tương
tự khác như: đòi thực hiện chính sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa

hoạch, thu tiền đất vượt nhiều lần so với quy định của Nhà nước, sử dụng tiền
thu từ đất không đúng chế độ tài chính; tố cáo chính quyền địa phương quản lý,
sử dụng quỹ đất công sai mục đích, sai quy định của pháp luật. Ngo ài ra, còn có
nội dung đơn tố cáo cán bộ công chức thụ lý giải quyế t khiếu nại về đất đai
không đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng với nguyện vọng của
mình.
2. Các nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh khiếu nại, tố cáo về đất đai
Do chuyển đổi sang nền kinh tế thị tr ường, Nhà nước thực hiện chính sách
mới về quản lý đất đai. Đất đai trở thành một tư liệu sản xuất quan trọng và là
một tài sản có giá đối với với mọi ng ười dân. Có nhiều nguyên nhân làm phát
sinh khiếu nại về đất đai nói chung, nh ưng chủ yếu vẫn tập trung vào các nguyên
nhân sau đây:
Có sự biến động lớn về chủ sử dụng đất: Chiến tranh khốc liệt trong 30
năm , tiếp theo đó là chiến tranh biên giới gây nên sự xáo trộn lớn về nơi cư trú
cùng với những chính sách đất đai theo y êu cầu của từng thời kỳ cách mạng đ ã
dẫn đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc d ù pháp luật về đất đai
(Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003) không thừa nhận việc đ òi lại
đất đã giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá tr ình
thực hiện chính sách đất đai nh ưng nhiều người vẫn tranh chấp hoặc khiếu nại
để đòi đất cũ của mình.
Sự bất cập của hệ thống chính sách pháp luật về đất đai: Việc ban
hành văn bản pháp luật về đất đai theo từng giai đoạn lịch sử, phát triển của đất
nước nên thiếu đồng bộ và còn chồng chéo, thiếu công bằng, người hưởng chính
sách sau được lợi hơn người hưởng chính sách trước (có một số trường hợp
những người chây ì, không chấp hành pháp luật được lợi hơn người chấp hành
nghiêm pháp luật), từ đó dẫn đến so bì, khiếu kiện. Những năm 1980, hợp tác x ã
và tập đoàn sản xuất nông nghiệp ở miền Nam đ ược hình thành, sau đó giải thể
nhưng Nhà nước chưa có chính sách xử lý kịp thời, tình trạng tự phát lấy lại
ruộng đất và biện pháp giải quyết của các địa ph ương không thống nhất trong


sót của cơ quan nhà nước: đo đạc không chính xác diện tích, nhầm lẫn địa danh,
thu hồi đất không có quyết định, không l àm đầy đủ các thủ tục pháp lý, giao đất,


cho thuê đất, đấu thầu đất, bồi thường giải toả và sử dụng những khoản tiền thu
được không công khai gây nghi ngờ cho nhân dân. Việc giao đất trái thẩm
quyền, không đúng đối tượng, giao sai diện tích, vị trí, sử dụng tiền thu từ đất sai
quy định của pháp luật hoặc người sử dụng đất đã làm đủ các nghĩa vụ theo quy
định nhưng không được hợp thức quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là những nguyên nhân tạo thành khiếu kiện đông người,
thành các đoàn khiếu kiện đến các cơ quan Trung ương. Sự yếu kém, bất cập
trong công tác quản lý đất đai cùng với một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử dụng đất đai, nhũng nhiễu, thiếu
công tâm là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh những khiếu nại, tranh chấp về
đất đai.
Sự bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Khi phát sinh
khiếu nại, tố cáo một số chính quyền địa ph ương chưa làm tròn trách nhiệm của
mình, thiếu quan tâm giải quyết từ c ơ sở, có rất nhiều vụ việc giải quyết chậm,
thẩm tra xác minh sơ sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính
xác; áp dụng pháp luật cứng nhắc, ph ương án giải quyết thiếu thuyết phục,
người dân không đồng tình tiếp tục khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, sự phối hợp
giữa cơ quan Nhà nước để giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa tốt, còn có
hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng, trả lời thiếu thống nhất.
Việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, h ướng dẫn người khiếu nại,
tố cáo và công tác hoà giải ở cơ sở chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên
có những vụ việc đơn giản vẫn phát sinh đơn khiếu nại, tố cáo vượt cấp.
Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận
cán bộ, công chức: Một số ít cán bộ vì lợi ích kinh tế đã cố tình vi phạm chính
sách pháp luật đất đai để trục lợi. Việc áp dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện, xã còn có tình trạng tuỳ tiện, nhất là ở cấp xã. Từ đây làm cho dân

sử dụng đất giữa nhân dân ở các địa ph ương với các đơn vị đựoc giao cấp đất;
tranh chấp giữa nhân dân với cá nhân, hộ gia đ ình về diện tích, ranh giới, chuyển
nhượng đất… Đây là nội dung đa dạng và phức tạp nhất trong giải quyết khiếu
nại về lĩnh vực đất đai. Khi giải quyết những nội dung này, đòi hỏi người thụ lý
giải quyết phải có quá trình xác minh, thu thập chứng cứ chặt chẽ, kỹ l ưỡng, xác
định từ nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, quá trình giải quyết… từ đó căn cứ
các quy định của pháp luật để đề xuất hướng giải quyết vụ việc. Để giải quyết
những vấn đề này, ngoài yếu tố pháp luật người giải quyết cần phải xem xét các


yếu tố lịch sử, thậm chí kể cả yếu tố chính trị đề giải quyết một cách thấu t ình
đạt lý. Việc áp dụng pháp luật v ào giải quyết phải linh hoạt và phù hợp với từng
thời điểm xảy ra vụ việc.
Tuy nhiên, công tác giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai ở các nội
dung trên còn có một số hạn chế như: công tác hoà giải ở cơ sở chưa được chú
trọng thực hiện tốt, còn mang tính hình thức, tổ chức hoà giải chưa đầy đủ thủ
tục và phó mặc cho cấp trên giải quyết; chưa có sự thống nhất về trình tự thủ tục
và tiêu chí thẩm tra xác minh trong quá tr ình giải quyết khiếu kiện; sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ và hiệu quả; việc tổ chức thực hiện
các quyết định giải quyết đã có hiệu lực chưa triệt để; hệ thống pháp luật ch ưa
đồng bộ, hay thay đổi nhất là pháp luật về đất đai, nhà ở.
Công tác tổ chức đối thoại với người khiếu nại là một việc làm có tính
chất bắt buộc theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo nhưng trên thực tế rất
khó tuân thủ đúng quy định. Việc đối thoại với công dân l à trách nhiệm của
người có thẩm quyền giải quyết (Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch UBND huyện)
nhưng trong tình hình hiện nay khiếu nại, tố cáo rất nhiều , Chủ tịch UBND
không thể trực tiếp đối thoại hết các vụ việc m à thường ủy quyền cho Chánh
thanh tra hay Giám đốc sở, ngành liên quan - cơ quan trực tiếp thụ lý, xác minh.
Do vậy, tính khách quan xem xét vụ việc khó đ ược bảo đảm.
3.2. Đánh giá về thực trạng công tác giải quyết tố cáo về lĩnh vực đất

nại không được giải quyết theo ý muốn của mình. Và trên thực tế, hầu như chưa
có trường hợp nào người dân tố cáo sai bị xử lý. Hạn chế n ày đã làm cho người
dân gửi đơn tố cáo tràn lan làm mất thời gian của các cơ quan chức năng khi tiến
hành xác minh, mặt khác làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá n bộ công
chức.
III. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
Đề án “Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai của cơ quan hành chính Nhà nư ớc trên địa bàn tỉnh Bến Tre” nhằm
đạt được các mục tiêu sau:
1. Mục tiêu tổng quát:
Triển khai thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo nói
chung và ở lĩnh vực đất đai nói riêng.


Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong công tác tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo; đặc biệt trong lĩnh vực đất đai nhằm góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an to àn xã hội, tạo tiền đề phát triển kinh tế - xã
hội.
Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân.
2. Mục tiêu cụ thể:
Đề cao trách nhiệm của Thủ tr ưởng các cấp, các ngành trong công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Tăng cường sự phối hợp giữa các ng ành hữu quan trong công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Đề xuất hoàn thiện tổ chức, bộ máy tiếp công dân, giải quy ết khiếu nại,
tố cáo và chế độ đãi ngộ xứng đáng cán bộ công chức l àm công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

khách quan, làm rõ nguyên nhân phát sinh khi ếu nại, tố cáo, kết luận rõ đúng
sai, đề ra phương hướng giải quyết phù hợp, có lý có tình.
Các cơ quan nhà nước phải củng cố và chấn chỉnh công tác tiếp công
dân, thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp công dân, bố trí cán bộ có đủ năng lực,
trình độ, kinh nghiệm, phẩm chất đảm bảo công tác tiếp công dân. Những vụ
việc phức tạp các đồng chí lãnh đạo trực tiếp tiếp dân, đối thoại với công dân v à
trực tiếp chỉ đạo giải quyết. Khi xảy ra khiếu kiện đông ng ười thì các cơ quan
nhà nước phải tăng cường sự phối hợp để tiếp dân v à vận động công dân trở về
địa phương; đồng thời, có biện pháp giải quyết kịp thời, dứt điểm không để kéo
dài, tái khiếu kiện.
Các cơ quan thanh tra Nhà nư ớc tăng cường công tác thanh tra trách
nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với thủ tr ưởng và cán bộ, công chức có
trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, tập trung vào những
nơi có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo d ài, vượt cấp, đông người, phức tạp;
chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo thấp; không chấp h ành nghiêm
túc sự chỉ đạo của cấp trên… để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, kiến
nghị chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý công khai, nghi êm minh những
cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật giải quyết khiếu nại, tố


cáo nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương, tăng cường hiệu quả trong công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của
cán bộ, nhân dân. Tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp h ành pháp
luật và các quyết định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với
các trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối th ì phải tiến
hành làm rõ, xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả
thi, hiệu lực, hiệu quả của pháp luật; Chấn chỉnh, tăng c ường công tác quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng;

tiếp công dân: do tiếp dân là một công việc khá phức tạp, đòi hỏi cao về phẩm
chất đạo đức và chuyên môn nên cần thiết phải đào tạo và bố trí cán bộ chuyên
trách, căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương thì cần thiết phải bố trí đội ngũ
tiếp công dân như sau: cấp xã, phường ít nhất 01 người; cấp huyện ít nhất 02
người; sở, ngành ít nhất 02 người; phòng tiếp dân UBND tỉnh ít nhất 05 người.
Do tính chất phức tạp của công tác tiếp công dân, đồng thời nhằm động viên,
khích lệ cán bộ làm công tác này tâm huyết và gắn bó, cần phải có chế độ đãi
ngộ thoả đáng. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì cán bộ, công chức cơ
quan nhà nước khi làm nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đ ơn thư khiếu nại, tố cáo
theo phân công của Thủ trưởng cơ quan và cán bộ, công chức cơ quan nhà nước
được cơ quan có thẩm quyền mời, triệu tập làm nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo được hưởng mức hỗ trợ là 25.000đ/1 ngày khi làm
nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đ ơn thư khiếu nại, tố cáo. Đối với cán bộ, công
chức cơ quan nhà nước khi làm nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đ ơn thư khiếu nại,
tố cáo theo phân công của Thủ trưởng cơ quan nhưng đang hưởng phụ cấp
ngành nghề thanh tra theo Quyết định số 2002/Q Đ -TTg của Thủ tướng Chính
phủ thì được hưởng chế độ hỗ trợ 15.000đ/ ng ày khi làm nhiệm vụ tiếp công
dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Củng cố tổ chức cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Từ
thực trạng hiện nay, đội ngũ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thường là
cán bộ công chức của các tổ chức thanh tra các cấp, tuy nhiên lực lượng này còn
mỏng so với khối lượng công việc phải đảm nhận dẫn đến tình trạng quá tải về
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đối với tỉnh Bến Tre, năm 2010 thực hiện
việc giao nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cho Thanh tra các cấ p và ngành Tài



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status