Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở một số kiểu thảm thực vật tại xã xuân sơn, huyện tân sơn, tỉnh phú thọ - Pdf 36

IH
TR
NG
I H C S PH M
---------------  ---------------

NGUY N TH Y N

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC

VÀ TÍNH ĐA DẠNG NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
Ở MỘT SỐ KIỂU THẢM THỰC VẬT TẠI XÃ XUÂN SƠN,
HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

LU N V N TH C S SINH H C

- 2008


IH
TR
NG
I H C S PH M
---------------  ---------------

NGUY N TH Y N

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC

VÀ TÍNH ĐA DẠNG NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
Ở MỘT SỐ KIỂU THẢM THỰC VẬT TẠI XÃ XUÂN SƠN,

Khoa học Tự nhiên và Xã hội - Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học Cao học!
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian qua!
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về mặt thời gian, kinh phí
cũng nhƣ trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận đƣợc những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa
học, cùng bạn bè, đồng nghiệp!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 18 tháng 9 năm 2008

Tác giả
Nguyễn Thị Yến
1
http://www.lrc-tnu.edu.vn


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Tác giả

Nguyễn Thị Yến

2
http://www.lrc-tnu.edu.vn


CÁC TỪ VIẾT TẮT

SĐVN

Sách đỏ Việt Nam

TCN

Trƣớc công nguyên

VU

Sẽ nguy cấp

WHO

World Health Organization - Tổ chức y tế thế giới

3
http://www.lrc-tnu.edu.vn


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Đất nƣớc Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam quả là một kho tàng dƣợc
liệu nhiệt đới vô cùng phong phú. Với điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng
đặc thù, là nơi gặp gỡ của hai trung tâm giàu loài nhất thế giới: Trung Quốc
và Inđônêxia, hệ thực vật nƣớc ta có thành phần loài mang cả yếu tố thực vật
nhiệt đới ẩm Inđônêxia - Malayxia, đó là yếu tố thực vật nhiệt đới gió mùa,
thực vật ôn đới nam Trung Hoa. Nƣớc ta hiện có tới 10.386 loài thuộc 2.257
chi và 305 họ thực vật bậc cao có mạch, chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số

đất, lòng rừng, ngƣời Việt Nam càng cảm thấy tự hào và có trách nhiệm hơn
với thiên nhiên, đƣa khoa học, kỹ thuật vào nghiên cứu, bảo vệ và phát triển
nguồn tài nguyên quý giá này. Tuy nhiên, một thực trạng đáng lo ngại ở
nƣớc ta trong những năm gần đây là nạn phá rừng, làm rẫy, khai thác gỗ củi
vẫn liên tiếp xảy ra, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, nhiều loài sinh vật
quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, lâm tặc ngang nhiên lộng hành, tàn phá
thiên nhiên… Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì trong những
năm tới, nguồn tài nguyên rừng nói chung và nguồn dƣợc liệu tự nhiên có
nguồn gốc sinh vật nói riêng sẽ bị cạn kiệt hoàn toàn.
Xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là một trong 4 xã thuộc
Vƣờn Quốc gia Xuân Sơn, với tổng diện tích tự nhiên là 6.548ha, trong đó
diện tích đất lâm nghiệp chiếm hơn 80% với thành phần loài thực vật khá
phong phú và đa dạng [60]. Trƣớc khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên (năm
1986) và Vƣờn Quốc gia (năm 2002) thì hiện tƣợng chặt phá rừng, khai thác
lâm sản ngoài gỗ vẫn diễn ra thƣờng xuyên đã làm cho chất lƣợng rừng bị
giảm sút nghiêm trọng. Từ khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên, thảm thực
vật ở đây đã đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt, tình trạng phá rừng không còn, song
việc khai thác nguồn tài nguyên phi lâm sản (song mây, dƣợc liệu, hoa quả
rừng…) vẫn diễn ra hàng ngày, nên đã làm giảm đáng kể tính đa dạng sinh
học nói chung, đặc biệt là nguồn dƣợc liệu.
5
http://www.lrc-tnu.edu.vn


Từ lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính
đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở một số kiểu thảm thực vật tại xã
Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ''.
2. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU

Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu:

nhiều tác giả khác nhƣ Rubel, Ilinxki, Aubreville, Champion (1936), Beard
(1944) [56]. Trong đó đáng chú ý là hệ thống của Aubreville đã làm nổi bật giá
trị của tiêu chuẩn độ tán che trên mặt đất của tầng ƣu thế sinh thái, và đã phân
hoá đƣợc những kiểu quần thể thƣa nhƣ kiểu rừng thƣa và kiểu truông cỏ [56].
Tuy nhiên, nhƣợc điểm lớn nhất của các hệ thống phân loại thảm thực
vật nói trên là không thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố sinh thái với
thảm thực vật, hoặc là không làm nổi bật mối quan hệ qua lại giữa các nhân tố
sinh thái với nhau [56].
Năm 1973, UNESCO đã công bố một khung phân loại thảm thực vật
thế giới dựa trên nguyên tắc ngoại mạo và cấu trúc, chia thảm thực vật thế
giới thành 5 lớp quần hệ (Lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thƣa, lớp
quần hệ cây bụi, lớp quần hệ cây bụi lùn, lớp quần hệ cây thảo) [56].
Ở Việt Nam, bảng phân loại thảm thực vật đầu tiên là của A.Chevalier
(1918), ông đã phân loại rừng Bắc bộ với 10 kiểu khác nhau [56].
Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dƣơng và ông đã
chia thảm thực vật Đông Dƣơng làm 3 vùng: Bắc Đông Dƣơng, Nam Đông
Dƣơng và vùng trung gian. Đồng thời, ông đã kể ra 8 kiểu quần lạc trong các
vùng [54]. Sau đó là các tác giả: Rollet, Lý Văn Hội, Neangéiam Oli (1952),
Dƣơng Hàm Hi (1956) và M.Schmid (1962) [56].
7
http://www.lrc-tnu.edu.vn


Năm 1960, Cục Điều tra quy hoạch rừng đã áp dụng cách phân loại
rừng theo trạng thái của Loschau. Hệ thống này chia thảm thực vật thành 4
loại hình lớn:
- Loại hình I: Gồm những đất đai hoang trọc, trảng cỏ và trảng cây bụi.
- Loại hình II: Gồm những rừng non mới mọc.
- Loại hình III: Gồm tất cả các loại rừng bị khai thác lạm dụng nên trở
thành nghèo kiệt.

loài, mật độ cá thể và phổ dạng sống của thảm thực vật phục hồi sau nƣơng rẫy
theo thời gian bỏ hoá. Theo tác giả, hệ thực vật sau nƣơng rẫy ở vùng đệm Pù
Mát (Nghệ An) khá đa dạng về thành phần loài, gồm 586 loài thuộc 344 chi, 105
họ thực vật bậc cao có mạch [4].
Đặng Kim Vui (2002), nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng sau nƣơng
rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, cho thấy 1-2 tuổi có 76 loài thuộc
36 họ, 3-5 tuổi có 65 loài thuộc 34 họ, 5 - 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ, 1115 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ [59].
Phạm Ngọc Thƣờng (2003) khi nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh
tự nhiên sau nƣơng rẫy ở Bắc Kạn, đã kết luận quá trình phục hồi sau nƣơng
rẫy chịu tác động tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái nhƣ nguồn giống,
địa hình, thoái hoá đất, con ngƣời. Mật độ cây giảm dần theo thời gian phục
hồi của thảm thực vật, cây gỗ trên đất tốt nhiều nhất 11 - 25 loài, trên đất xấu
8 - 12 loài [53].
Nguyễn Thế Hƣng (2003) nghiên cứu tổ thành loài thực vật trong các
trạng thái thực bì sau nƣơng rẫy ở Quảng Ninh. Kết quả thu đƣợc 324 loài
thuộc 251 chi, 93 họ [30].
Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La
đã thu đƣợc 452 loài thuộc 326 chi và 153 họ [32].
Lê Ngọc Công (2004) khi nghiên cứu quá trình phục hồi bằng khoanh
nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã xếp thảm thực vật tỉnh Thái
Nguyên vào 4 lớp quần hệ: lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thƣa, lớp
9
http://www.lrc-tnu.edu.vn


quần hệ cây bụi và lớp quần hệ cỏ. Thành phần loài thực vật ở đây đã thống
kê sơ bộ đƣợc 654 loài thuộc 468 chi, 160 họ [10].
Trần Đình Lý (2006), căn cứ vào hệ thống phân loại thảm thực vật của
UNESCO (1973) đã phân loại thảm thực vật các tỉnh Bắc Trung bộ (Việt
Nam) thành 4 lớp quần hệ: Lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thƣa, lớp

mở đầu cho một giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu sâu về lĩnh vực này [23].
Thầy thuốc ngƣời Hy Lạp Dioscorides năm 60 - 20 (TCN) giới thiệu
600 loài cây cỏ chủ yếu để chữa bệnh. Đồng thời, ông cũng là ngƣời đặt nền
móng cho nền y dƣợc học [23].
Năm 79 - 24 (TCN), nhà tự nhiên học ngƣời La Mã Plinus soạn thảo bộ
sách "Vạn vật học" gồm 37 tập giới thiệu 1000 loài cây có ích [23].
Năm 1952, tác giả ngƣời Pháp A.Pétélot có công trình "Les phantes
de médicinales du Cambodye, du Laos et du Viet nam" gồm 4 tập nghiên
cứu về cây thuốc và sản phẩm làm thuốc từ thực vật ở Đông Dƣơng [66].
Nhƣ vậy, những công trình nghiên cứu về dƣợc liệu đã có từ lâu đời,
hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên,
do sự hạn chế của trình độ khoa học đƣơng thời nên những công trình này chỉ
dừng lại ở mức độ mô tả, thống kê và chỉ ra công dụng của chúng, chƣa có cơ
sở khoa học để chứng minh thành phần hoá học của chúng có tồn tại trong đó
và tham gia vào việc chữa bệnh nhƣ thế nào. Chỉ đến khi khoa học kỹ thuật
phát triển thì vấn đề này mới đƣợc làm sáng tỏ, tạo độ tin cậy đối với ngƣời
bệnh khi sử dụng.
1.3. Những nghiên cứu về cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Có thể nói, nó
xuất hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con ngƣời còn sống theo lối nguyên thuỷ.
Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra
công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài nhƣ vậy, tổ
tiên chúng ta đã dần dần tích luỹ đƣợc nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính
chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh.
11
http://www.lrc-tnu.edu.vn


Từ những buổi đầu dựng nƣớc, dƣới thời các vua Hùng, ông cha ta đã biết
sử dụng hành, tỏi, gừng, riềng… làm gia vị trong những bữa ăn hàng ngày.

chứng. Các tài liệu này đƣợc in lại trong "Nam dƣợc chính bản". Sau đƣợc
triều hậu Lê in lại trong "Hồng Nghĩa giác tƣ y thƣ" (1717 và 1723) và đƣợc
lƣu truyền đến nay [44].
Thế kỷ XVIII, Hải Thƣợng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1729 - 1791) đã thừa
kế dƣợc học của Tuệ Tĩnh chép vào tập "Lĩnh Nam bản thảo", nội dung gồm
496 vị thuốc Nam của "Nam dƣợc thần hiệu" và phát hiện thêm hơn 300 vị
nữa. Tƣ liệu vĩ đại nhất của ông là bộ sách: "Hải Thƣợng y tông tâm lĩnh"
gồm 66 quyển viết về lý luận cơ bản, phƣơng pháp chẩn đoán, trị bệnh [25].
Ngoài các bộ sách trên, còn kể đến tập "Vạn phƣơng thập nghiệm" của
Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản năm 1763. Tập "Nam bang
thảo mộc" của Trần Nguyệt Phƣơng mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản
năm 1858 [27].
Triều Tây Sơn (1788 - 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập "Nam dƣợc"
với 620 vị thuốc, với các phƣơng thuốc kinh nghiệm gia truyền [26].
Triều Nguyễn (1802 - 1845) có quyển "Nam dƣợc tập nghiệm quốc âm"
của Nguyễn Quang Lƣợng về phƣơng thuốc dân gian [26].
Công trình nghiên cứu của Ch.Crévost và A.Pétélote (1928 - 1935), đã
nghiên cứu và công bố kết quả điều tra về tài nguyên thực vật ở Việt Nam và
Đông Dƣơng [63].
Sau cách mạng tháng 8-1945, y dƣợc học cổ truyền đạt đƣợc những
thành tựu to lớn. Dƣới sự lãnh đạo của Bộ Y tế cùng y học hiện đại, sức khoẻ
của ngƣời dân đƣợc quan tâm và chăm lo chu đáo hơn.
Sau khi nƣớc nhà thống nhất (năm 1975), việc nghiên cứu cây thuốc ở
nƣớc ta đƣợc quan tâm nhiều. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và
phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới.
Dƣợc điển Việt Nam tập 2 (1983) của NXB Y học do nhiều thành viên
và các cơ quan tham gia xây dựng, đã mô tả và nêu công dụng của hơn 430
loài cây thuốc [ 3].
13
http://www.lrc-tnu.edu.vn

http://www.lrc-tnu.edu.vn


đƣợc 4 nhóm theo công dụng: cây lƣơng thực - thực phẩm, cây làm thuốc, cây
có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm cây làm thuốc, các tác
giả đã thống kê đƣợc 657 loài thuộc 118 họ mà ngƣời H'Mông sử dụng làm
thuốc chữa bệnh cho ngƣời và gia súc [13].
Nguyễn Thị Thuỷ, Lƣu Đàm Cƣ, Phạm Văn Thính, Bùi Văn Thanh
(2005), khi nghiên cứu việc thu hái và sử dụng cây thuốc của đồng bào dân
tộc Tày khu vực Việt Lâm (Vị Xuyên, Hà Giang) đã cho biết: Có hơn 400 loài
cây thuốc thƣờng xuyên bị thu hái thuộc 104 họ thực vật, trong đó những họ
có số loài đƣợc sử dụng nhiều nhất là Fabaceae (25 loài), Euphorbiaceae (19
loài), Asteraceae (18 loài), Rutaceae (12 loài)… [ 51].
Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, Nguyễn Thị Thuỷ, Phạm Văn Thính (2005),
đã điều tra các nhóm cây có ích trong cộng đồng dân tộc Mƣờng và Dao tại
xã Chiềng Yên (Mộc Châu, Sơn La), cho biết: Ngƣời Mƣờng đã khai thác và
sử dụng thƣờng xuyên 12 nhóm cây tài nguyên, trong đó nhóm cây thuốc
gồm 198 loài… Ngƣời Dao thƣờng xuyên khai thác và sử dụng 165 loài cây
thuốc, bao gồm 22 loài cây rau ăn, 10 loài cây ăn quả, 9 loài cây lấy gỗ, 5
loài cây độc… [ 45].
Lƣu Đàm Cƣ, Trƣơng Anh Thƣ, Hà Tuấn Anh (2005), đã điều tra việc
sử dụng cây thuốc hoang dại của ngƣời H'Mông ở xã SaPả (huyện SaPa, tỉnh
Lào Cai) cho thấy, họ thƣờng xuyên thu hái và sử dụng 251 loài cây thuốc
thuộc 148 chi, 72 họ để điều trị 86 chứng bệnh của 21 nhóm bệnh. Trong đó,
các nhóm bệnh sử dụng nhiều loài cây thuốc để điều trị gồm: bệnh về tiêu hoá
(18 loài), các bệnh phụ nữ (18 loài), các bệnh tiết niệu (15 loài), các bệnh cơ xƣơng (12 loài)… Các tác giả còn xác nhận có 38 loài đƣợc ghi trong Sách đỏ
Việt Nam [14].
Lê Ngọc Công, Nguyễn Văn Hoàn (2006), nghiên cứu đa dạng các loài
cây thuốc ở khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử (Bắc Giang) đã thống kê
15

16
http://www.lrc-tnu.edu.vn


Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về y học cổ truyền bản địa của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn ít đề cập đến, có thể nói công trình
đầu tiên của Võ Thị Thƣờng (1986) đã nghiên cứu các loài cây ăn đƣợc của
đồng bào Mƣờng. Trong đó, tác giả đã giới thiệu 89 loài thuộc 38 họ, đồng
thời đƣa ra một số nhận xét về mối quan hệ giữa việc sử dụng cây thuốc
của đồng bào Mƣờng với điều kiện sống và nơi ở của họ [52]. Năm 1994.
Lê Nguyên Khanh và Trần Thiện Quyền đã xuất bản cuốn "Những bài
thuốc kinh nghiệm bí truyền của các ông lang bà mế miền núi" [31]. Công
trình nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thị Hạnh và Ngô Trực
Nhã (2001) về vấn đề Thực vật học dân tộc: Cây thuốc của đồng bào Thái
ở Con Cuông - Nghệ An. Trong đó, các tác giả đã đánh giá tính đa dạng
nguồn tài nguyên cây thuốc, vấn đề sử dụng cây thuốc và đặc biệt là đánh
giá tính hiệu quả của cây thuốc mà đồng bào dân tộc Thái sử dụng [49].
Gần đây, năm 2003, Trần Văn Ơn trong luận án Tiến sĩ Dƣợc học "Góp
phần nghiên cứu bảo tồn cây thuốc ở Vƣờn Quốc gia Ba Vì", ông đã điều
tra đƣợc 503 loài cây thuốc đƣợc ngƣời Dao sử dụng thuộc 321 chi, 118 họ
của 5 ngành thực vật [39].
Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam đều đánh giá cao sự phong phú, ý
nghĩa thực tiễn, giá trị khoa học cũng nhƣ giá trị kinh tế của nguồn tài
nguyên cây thuốc. Cây thuốc dân tộc và đặc biệt tri thức y học dân tộc cổ
truyền Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc duy trì, tồn tại và phát
triển của dân tộc ta từ xa xƣa đến nay. Việc ứng dụng những kinh nghiệm
dân gian và nghiên cứu Thực vật học dân tộc ở Việt Nam nói chung, và các
dân tộc thiểu số nói riêng là rất cần thiết để góp phần phát triển nền kinh tế
của đồng bào dân tộc. Vì vậy, để phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp cũng
nhƣ góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn những

Tinh dầu đƣợc chiết xuất từ các loài cây làm thuốc có tác dụng rõ rệt lên
hệ tuần hoàn, hô hấp, thần kinh. Hiện nay, trong một số xí nghiệp ở Mĩ, Nga,
18
http://www.lrc-tnu.edu.vn




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status