Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm và xây dựng một số biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty may phù đổng - Pdf 38

LỜI MỞ ĐẦU
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, trong hơn 10 năm qua,
cách mạng nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trên
lĩnh vực kinh tế. Hòa nhịp với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
kinh tế khác. Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã có bước tiến
vược bậc, nhanh chóng trở thành ngành sản xuất mũi nhọn, thu hút
được số công nhân lao động cao nhất, có tốc độ tăng trưởng đáng kể
cho nền kinh tế quốc dân.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, đẩy mạnh công tác
tiêu thụ sản phẩm là vấn đề mang tính cấp thiết và có ý nghĩa sống còn
đối với doanh nghiệp, muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị
trường, công tác tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng và có ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả cuả quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản
phẩm đạt hiệu quả cao là điều kiện để doanh nghiệp nhanh chóng thu
hồi vốn, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, một mặt góp phần tăng doanh thu,
lợi nhuận cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp không ngừng duy trì và
mở rộng thị trường, nâng cao uy tín, cải thiện vị trí của doanh nghiệp
trên thị trường.
Tuy nhiên trên thực tế vấn đề giải quyết đầu ra cho sản phẩm vẫn
là bài toán nan giải đối với các doanh nghiệp nước ta. Đặc biệt là đối
với ngành may mặc. Hiện nay Công ty may Phù Đổng cũng đang gặp
những khó khăn đó. Bởi vì việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty phần lớn
là sản xuất hàng gia công tiêu thụ sản phẩm thông qua Công ty May 10
chiếm tỷ lệ 94% tổng số sản phẩm. Chính vì chỉ có một khách hàng
truyền thống, nên số lượng sản phẩm tiêu thụ còn nhiều hạn chế, chưa
khai thác hết công suất, làm giảm hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh, tình trạng này cần thiết phải khắc phục nhanh chóng. Giải quyết
tốt việc tiêu thụ sản phẩm chính là một trong những hướng quan trọng
1
để giải quyết bế tắc này và cũng là tiền đề phù hợp nhằm giành được ưu
thế so với các đối thủ cạnh tranh và tăng phần thị trường của mình.

khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất đến thực hiện các nghiệp vụ
tiêu thụ, xúc tiến bán hàng … nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất.
+ Theo nghĩa hẹp, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ là việc chuyển dịch
quyền sở hữu sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng
đồng thời thu được tiền hàng hóa hoặc thu tiền bán hàng.
Những nguyên tắc cơ bản trong tiêu thụ sản phẩm, là đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm, đảm bảo tính liên tục
trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, tiết kiệm và nâng cao trách nhiệm
của các bên trong quan hệ thương mại.
Trong doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng,
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm của
doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp
nhận (thị trường chấp nhận). Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
3
thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm,
sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt
động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những
điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
1.2. Nội dung công tác tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp :
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất,
thực hiện chức năng đưa sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực
tiêu dùng, nhằm thực hiện giá trị hàng hóa của doanh nghiệp. Đó là việc
cung ứng cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sản
xuất ra, đồng thời được khách hàng thanh toán. Tiêu thụ sản phẩm cũng
được xem như một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu, từ việc xác
định nhu cầu thị trường cho đến việc thực hiện các dịch vụ sau khi bán.
* Nghiên cứu thị trường :
Là việc phân tích về lượng và chất của cung và cầu một sản phẩm
hay dịch vụ. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là để có những thông
tin cần thiết phục vụ cho quá trình xây dựng các kế hoạch về tiêu thụ

và cung cấp các dịch vụ.
Để hỗ trợ hiệu quả và mở rộng khả năng tiêu thụ sản phẩm trước
những cản trở của thị trường (thị trường dư thừa, nhu cầu tiêu dùng
thay đổi, sản phẩm cạnh tranh …). Trong quá trình tiêu thụ, các doanh
nghiệp cần khai thác một cách hữu hiệu các công cụ marketing như :
quảng cáo và khuyến khích bán hàng; chất lượng và mẫu mã sản phẩm,
mức giá bán và tổ chức bán hàng.
* Quảng cáo và khuyến khích bán hàng :
Mục đích của quảng cáo là tạo điều kiện để các cá nhân và tập thể
người tiêu dùng thuận tiện mua sản phẩm của doanh nghiệp quảng cáo.
Vì thế, những thông tin về sản phẩm trong quảng cáo phải nhằm mục
đích mua hàng chứ không phải tạo cơ hội để người mua so sánh một
cách có hệ thống giữa sản phẩm nọ với sản phẩm kia.
5
Ngoài những thông tin về sản phẩm, thông qua quảng cáo người
ta cố gắng đem đến cho khách hàng tiềm năng, những lý lẽ đưa họ đến
quyết định mua. Ở đây, nhận thức về tâm lý quảng cáo rất có tác dụng.
Thông qua các biện pháp khuyến khích bán hàng, tác dụng của
quảng cáo cũng được tăng lên, khuyến khích bán hàng, bao gồm những
biện pháp như hướng dẫn tín dụng, niêm yết giá, tổ chức thi đua nội bộ
và tăng cường đào tạo nhân viên bán hàng.
* Chất lượng và mẫu mã sản phẩm :
Không phải chỉ những nhà kỹ thuật, mà cả các nhân viên bán
hàng, đều có ảnh hưởng đến mẫu mã và chất lượng của sản phẩm.
* Quyết định về giá:
Giá đòi hỏi không những chỉ bù đắp những chi phí trong sản xuất,
mà còn phải đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp
phải nắm chắc các thông tin về chi phí sản xuất thông qua hạch toán giá
thành. Doanh nghiệp cũng phải biết rõ sản phẩm của mình cần phải bán
được với giá nào.

thể kinh tế độc lập và phải tự mình giải quyết cả ba vấn đề cơ bản của
tổ chức kinh tế, lợi nhuận là mục tiêu sống còn của nhân dân. Muốn có
lợi nhuận, doanh nghiệp phải tiêu thụ được hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm
của doanh nghiệp phải phù hợp với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và
phát triển lâu dài thì mỗi doanh nghiệp cần xác định được chiến lược
tiêu thụ sản phẩm.
Chiến lược tiêu thụ sản phẩm là định hướng hoạt động có mục
tiêu của doanh nghiệp và là hệ thống các giải pháp, biện pháp nhằm
thực hiện mục tiêu đề ra trong công tác tiêu thụ. Mục tiêu của chiến
lược tiêu thụ sản phẩm thường bao gồm : mặt hàng tiêu thụ, tăng doanh
số, tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng thị trường, nâng cao uy tín cho doanh
nghiệp mình.
7
Chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nó giúp cho
doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu khách hàng, từ đó chủ động đối
phó với mọi diễn biến của thị trường, giúp doanh nghiệp mở rộng được
thị trường mới, kế hoạch hoá về khối lượng tiêu thụ, doanh thu lợi
nhuận, chọn kênh tiêu thụ và các đối tượng khách hàng. Chiến lược tiêu
thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng và quyết định sự thành công hay
thất bại của chiến lược kinh doanh.
2.2. Xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm :
2.2.1. Những căn cứ xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm :
Do sự tác động của nhiều yếu tố nên khi xây dựng chiến lược tiêu
thụ sản phẩm cần xuất phát từ nhiều căn cứ khác nhau, có ba căn cứ chủ
yếu mà người ta gọi là tam giá chiến lược, đó là (căn cứ vào khách
hàng, căn cứ vào khả năng của doanh nghiệp, căn cứ vào đối thủ cạnh
tranh). Trong đó :
- Căn cứ vào khách hàng : trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt
trong điều kiện xã hội, ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ giữa các nhóm dân cư càng bị phân hoá, bởi thế không còn

thói quen sử dụng sản phẩm, dịch vụ của khách hàng.
2.2.2. Nội dung cơ bản của chiến lược tiêu thụ sản phẩm :
Chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thực chất là một
chương trình hành động tổng quát hướng tới việc thực hiện những mục
tiêu cụ thể của doanh nghiệp. Chiến lược tiêu thụ sản phẩm của mỗi
doanh nghiệp được xây dựng dựa trên những căn cứ khác nhau, với
những mục đích khác nhau nhưng đều phải có hai phần (chiến lược tổng
quát và chiến lược bộ phận). Cụ thể như sau :
- Chiến lược tổng quát : có nhiệm vụ xác định các bước đi và
hướng đi cùng với những mục tiêu cần đạt tới. Nội dung của chiến lược
tổng quát thường được thể hiện bằng những mục tiêu cụ thể như :
9
phương hướng sản xuất, loại sản phẩm, dịch vụ lựa chọn, thị trường
tiêu thụ, nhịp độ tăng trưởng và các mục tiêu và tài chính … Tuy nhiên,
vấn đề quan trọng là phải xác định được mục tiêu cho từng thời kỳ.
Chiến lược bộ phận : là một số chiến lược tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp như sau :
* Chiến lược sản phẩm :
Là phương thức kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở bảo đảm thoả
mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng về sản phẩm
trong từng thời kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chiến lược sản phẩm là xương sống của chiến lược tiêu thụ. Trình
độ sản xuất càng cao, cạnh tranh càng gay gắt thì vai trò của chiến lược
tiêu thụ sản phẩm càng trở nên quan trọng, chiến lược sản phẩm không
những chỉ bảo đảm cho sản xuất kinh doanh đúng hướng, mà còn gắn
bó chặt chẽ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh
nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược tiêu thụ sản phẩm.
Nội dung của chiến lược sản phẩm là nhằm trả lời câu hỏi là :
- Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ gì ?
- Số lượng bao nhiêu và cho ai ?

Chiến lược sản phẩm dù rất quan trọng nhưng nếu không được hỗ trợ
bởi chiến lược giá cả thì sẽ thu hút được ít hiệu quả. Xác định một
chiến lược giá cả đúng đắn sẽ đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm cho
doanh nghiệp. Và từ đó sẽ đảm bảo các mục tiêu khác.
* Chiến lược phân phối :
Chiến lược phân phối sản phẩm, dịch vụ là phương hướng thể
hiện cách thức doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ cho khách
hàng của mình trên thị trường mục tiêu.
Chiến lược phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chiến lược phân phối hợp lý sẽ
11
làm cho quá trình kinh doanh an toàn, tăng cường khả năng liên kết
trong kinh doanh, giảm được sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu
thông hàng hóa nhanh chóng, góp phần giảm chi phí.
Chiến lược này luôn có mối quan hệ chặt chẽ với chiến lược sản
phẩm và chiến lược giá cả. Chiến lược phân phối chịu ảnh hưởng của
chiến lược giá cả nhưng đồng thời nó cũng tác động ngược trở lại đối
với việc xây dựng và triển khai hai chiến lược này.
* Chiến lược giao tiếp và khuyếch trương :
Là chiến lược sử dụng kỹ thuật yểm trợ bán hàng nhằm mục đích
thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế chỉ huy, người
sản xuất không cần quan tâm xây dựng chiến lược giao tiếp, khuyếch
trương. Bởi lẽ họ chỉ là người giao nộp chứ không phải là người bán.
Trong nền kinh tế thị trường, thì mục tiêu của người bán là lợi nhuận,
do vậy, phải thu hút khách hàng, thực hiện các hoạt động yểm trợ bán
hàng. Do vậy vai trò của chiến lược giao tiếp và khuyếch trương trở nên
cực kỳ quan trọng trong chiến lược tiêu thụ sản phẩm, chiến lược giao
tiếp khuyếch trương là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho chiến lược sản
phẩm, giá cả và phân phối.
Chiến lược giao tiếp khuyếch trương bao gồm những chiến lược sau :

và quyết định phải dựa trên những căn cứ nhất định, nó là cơ sở xây
dựng, mà còn là tiêu chuẩn để lựa chọn, quyết định phương án sản
phẩm. Tuy nhiên, mỗi loại hình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp mà xác định những căn cứ khác nhau để xây dựng lựa chọn,
quyết định phương án sản phẩm của mình, do vậy mà những căn cứ này
cũng không hoàn toàn giống nhau. Cụ thể nó được bao gồm như sau :
- Căn cứ vào chiến lược tiêu thụ sản phẩm và phương án tiêu thụ
tổng hợp.
- Căn cứ vào nhu cầu của thị trường.
- Căn cứ vào khả năng của doanh nghiệp.
13
2.3.2. Nội dung của phương án sản phẩm :
- Xác định mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp trong
thời kỳ xây dựng phương án sản phẩm. Đây là phương án sản phẩm
không chỉ bám sát mục tiêu của chiến lược tiêu thụ sản phẩm mà còn
vận dụng một cách cụ thể và linh hoạt trong thời kỳ hiện tại.
- Quyết định khối lượng sản phẩm, dịch vụ đưa ra thị trường. Đây
là nội dung then chốt của phương án sản phẩm, khối lượng sản phẩm,
dịch vụ đưa ra thị trường không phải chỉ nêu một cách chung chung, gói
gọn trong một con số tổng hợp mà phải chỉ ra (số lượng bao nhiêu ?,
chất lượng thế nào ?, người mua cần lúc nào ? cho ai ? ở đâu ? …).
- Nếu các điều kiện cần thiết để sản xuất ra khối lượng sản phẩm,
dịch vụ đã quyết định trong phương án, như vật tư, thiết bị, công nghệ,
vốn, lao động, bộ máy và cán bộ thực hiện …
- Tính toán kết quả tiêu thụ theo khối lượng sản phẩm trong
phương án. Việc tính toán kết quả kinh doanh là nội dung của nhiều
phương án bộ phận khác, như phương án giá thành, phương án lợi
nhuận, phương án huy động và sử dụng vốn … Trong phương án sản
phẩm không đề cập một cách chi tiết nhưng phải nêu một cách khái
quát trên các chỉ tiêu chủ yếu như : năng suất lao động, tỷ suất vốn đầu

Vì vậy, mở rộng thị trường tiêu thụ là đòi hỏi khách quan đối với
các doanh nghiệp.
3.2. Các phương hướng và các biện pháp cơ bản nhằm củng cố
và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm:
3.2.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý và tổ chức theo hướng: Gọn,
nhẹ, chuyên, tinh và có hiệu quả:
Các biện pháp :
- Tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý sao cho phù hợp, phân định
rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận.
- Đầu tư kinh phí đào tạo cán bộ, nâng cao tay nghề công nhân.
15
- Xây dựng cơ cấu lao động tối ưu dựa trên các đặc điểm kinh tế -
kỹ thuật của doanh nghiệp.
3.2.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành là cơ sở cho
doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ:
Các biện pháp:
- Hoàn thiện định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp với điều kiện kỹ
thuật và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp.
- Sử dụng các biện pháp khuyến khích vật tư cấp trong khâu cấp
phát và sử dụng nguyên liệu.
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện mức tiêu
hao nguyên vật liệu.
- Đầu tư đổi mới trang thiết bị, cơ sở hạ tầng các yếu tố phục vụ
sản xuất, giúp cho người lao động tăng năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm.
3.2.3. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị
trường, mở rộng các hoạt động thông tin quảng cáo nhằm mở rộng thị
trường tiêu thụ:
Các biện pháp :
- Tăng cường hoạt động điều tra, nghiên cứu thị trường

nhu cầu, mong muốn nào đó. Nhưng giá trị của sản phẩm là sự so
sánh giữa khả năng đáp ứng nhu cầu của sản phẩm này và chi phí
bỏ ra để có được sản phẩm đó.
+ Sự thoả mãn: là trạng thái của người tiêu dùng có được
khi sử dụng sản phẩm đã mua. Sự thoả mãn chỉ xuất hiện sau khi
khách hàng đã mua và đã sử dụng sản phẩm. Đây là khái niệm
cực kỳ quan trọng của marketing vì nhiệm vụ của marketing là
phải tạo nên, duy trì sự thoả mãn của khách hàng.
17
+ Quản trị marketing: là một quá trình bao gồm việc phân
tích lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch và kiểm tra thực hiện. Nó
không chỉ liên quan đến các sản phẩm hữu hình mà còn cả dịch vụ
và ý tưởng. Quản trị marketing có nhiệm vụ là ảnh hưởng đến
mức độ, tính chất thời điểm và cơ cấu của nhu cầu theo cách giúp
cho tổ chức đạt được mục tiêu của nó.
4.2. Một số cơ hội marketing cơ bản trong công tác tiêu thụ sản phẩm:
- Thâm nhập thị trường: Đây là việc làm tăng doanh số tiêu thụ
những sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp trên thị trường hiện tại bao
gồm các cách chủ yếu sau:
+ Khuyến khích những khách hàng hiện tại của doanh
nghiệp mua nhiều hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Điều
này có thể có tác dụng khi khách hàng không phải là người mua
thường xuyên.
+ Cố gắng thu hút các khách hàng của các đối thủ cạnh tranh
chuyển đổi nhãn hiệu sử dụng. Điều này có thể có tác dụng nếu như
doanh nghiệp thấy được những điểm yếu chính trong sản phẩm, hay
trong các chương trình marketing của các đối thủ cạnh tranh.
+ Thuyết phục những người chưa sử dụng sản phẩm của
doanh nghiệp thành người sử dụng.
- Phát triển thị trường: là việc tìm kiếm những thị trường mới mà

vậy mà chu trình sản xuất và phân phối sản phẩm có liên quan chặt chẽ
với nhau.
- Kênh phân phối hàng hoá: là tập hợp các tổ chức có trách nhiệm
bảo đảm đưa hàng hoá đến tận tay người tiêu dùng. Nói cách khác kênh
phân phối hàng hoá là đường đi của một hàng hoá từ nơi sản xuất đến
nơi tiêu dùng. Nó bao gồm ba loại kênh phân phối như sau:
19
+ Kênh trực tiếp (kênh không cấp): người tiêu dùng mua
hàng trực tiếp của người sản xuất, giữa sản xuất và tiêu dùng
không có một khâu trung gian nào.
+ Kênh ngắn (kênh một cấp): hàng hoá từ người sản xuất
được chuyển cho người bán lẻ hoặc đại lý bán lẻ rồi mới tới
người tiêu dùng.
+ Kênh dài (kênh nhiều cấp): giữa sản xuất và tiêu dùng có
nhiều khâu trung gian.
- Xây dựng mạng lưới phân phối: được tạo ra bởi toàn bộ các
kênh mà doanh nghiệp sử dụng để đưa sản phẩm dịch vụ tới tay người
tiêu dùng cuối cùng. Khi lựa chọn kênh phân phối thì doanh nghiệp cần
phải tính tới các nhân tố ảnh hưởng đến phân phối hàng hoá như:
* Đặc điểm của thị trường:
+ Loại khách hàng: khách hàng cá nhân hay khách hàng
công nghiệp
+ Số lượng khách hàng tiềm năng: số lượng khách hàng
càng nhiều càng cần nhiều khâu phân phối trung gian.
+ Vị trí địa lý của khách hàng
+ Khối lượng và tần suất mua
+ Các thói quen của khách hàng
* Đặc tính của sản phẩm:
+ Tính dễ hư hỏng: kem, nước đá, rau quả tươi, hoa tươi...
cần chọn kênh ngắn nhất

Mục tiêu thông tin
Quảng cáo có 3 nhóm mục tiêu: Quảng cáo nhằm để thuyết phục
Quảng cáo nhằm để nhắc nhở
- Marketing trực tiếp:
Trong marketing trực tiếp, người ta sử dụng thư, điện thoại và
những công cụ liên lạc gián tiếp khác để thông tin một cách trực tiếp
21
cho khách hàng hoặc yêu cầu họ có phản ứng đáp lại tại bất kỳ một địa
điểm nào. Những công cụ chủ yếu của marketing trực tiếp là:
+ Marketing bằng catalog
+ Marketing bằng thư trực tiếp
+ Marketing qua mua hàng điện tử
+ Marketing trực tiếp tổng hợp
- Khuyến mại:
Đây là hình thức bao gồm nhiều công cụ khác nhau, thường là
ngắn hạn và có tính chất tạm thời, nhằm kích thích người tiêu dùng
hoặc những người phân phối mua các sản phẩm/dịch vụ ngay lập tức
kích thích những người thờ ơ phải mua hàng. Làm cho khách hàng từ
chỗ mua lần đầu tiến tới mua đều đặn, lấy được sự trung thành của
khách hàng. Bao gồm có các hình thức khuyến mại như sau:
+ Phân phát hàng mẫu
+ Phiếu mua hàng ưu đãi
+ Hoàn trả tiền mặt, chiết giá hoặc bớt tiền
+ Thêm hàng hoá
+ Bao gói theo giá rẻ
+ Thưởng hay có quà tặng
+ Giải thưởng cho các cuộc thi, quay xổ số, bốc thăm, trò
chơi
+ Có phần thưởng cho khách hàng thường xuyên
+ Dùng thử miễn phí

* Các sự kiện: Công ty tổ chức những hoạt động nhân có những
sự kiện như tổ chức những hội nghị báo chí, hội thảo chuyên đề, những
cuộc đi chơi, triển lãm thi và hội thao, lễ kỷ niệm, bảo trợ các hoạt
động thể thao và văn hoá để tiếp cận công chúng mục tiêu.
23
* Tin tức: Viết bài trên các báo, tạp chí đưa tin trên đài phát
thanh hoặc truyền hình, càng tranh thủ được báo chí thì càng có điều
kiện giành được nhiều vị trí tốt hơn để tuyên truyền cho Công ty.
* Hoạt động công ích: ủng hộ các quỹ từ thiện, xây nhà tình
nghĩa, lập quỹ học bổng cho sinh viên.
* Phương tiện nhận dạng: Công ty cần phải cố gắng tạo ra những đặc điểm
nhận dạng nổi bật để công chúng có thể nhận ra ngay. Đặc điểm nhận dạng được
thể hiện trên logo của Công ty trên các công văn, giấy tờ, danh thiếp, thư tín
thương mại, biển hiệu, màu sắc đặc trưng của sản phẩm được sơn trên Công ty,
trên các biển quảng cáo nhận dạng qua quần áo đồng phục...
- Bán hàng trực tiếp:
Nhân viên bán hàng là cầu nối trực tiếp Công ty với khách hàng.
Những người bán hàng là người thay mặt Công ty quan hệ với rất nhiều
khách hàng và đồng thời cũng đem cho Công ty những thông tin tình
báo cần thiết về khách hàng. Vì vậy tổ chức tuyển chọn, đào tạo, quản
lý, động viên lực lượng bán hàng là một công việc mà Công ty phải
giành một sự quan tâm thoả đáng.
Bán hàng trực tiếp là một nghệ thuật lâu đời. Những nhân viên
bán hàng có hiệu quả không chỉ cần có trực giác, mà họ còn phải được
huấn luyện phương pháp phân tích và cách cư xử với khách hàng. Ngày
nay bán hàng là một nghề đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng cả một
loạt những nguyên tắc.
Hình I: Các bước chủ yếu của quá trình bán hàng
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM

Tiền thân của Công ty may Phù Đổng ngày nay nguyên là một Xí
nghiệp của Công ty May 10.
Hòa chung vào những thắng lợi của Công ty trong công cuộc đổi
mới, căn cứ vào các bước tiến của Xí nghiệp, trước những đòi hỏi của
thị trường may mặc trong nước và thế giới.
Ngày 19/12/1996, với quyết định số 3016/CP/TLDN ngày
1/1/1997 Công ty may Phù Đổng chính thức được thành lập với số vốn
góp của Công ty May 10 (Tổng công ty dệt may Việt Nam VINATEX)
quyết định số 226-CNN/TCLĐ ngày 24/3/1993 của Bộ Công nghiệp và
Liên đoàn lao động huyện Gia Lâm, quyết định thành lập số 765/TC-QĐ
ngày 28/9/1978 của Liên hiệp Công đoàn Thành phố Hà Nội.
Công ty may Phù Đổng là Công ty trách nhiệm hữu hạn thuộc Sở
công nghiệp Hà Nội được thành lập với mục đích chuyên sản xuất gia
công và tiêu thụ các mặt hàng may mặc, kinh doanh xuất nhập khẩu các
loại vật tư, sản phẩm thuộc ngành may và các loại hoạt động khác được
Nhà nước cho phép. Công ty đưa vào hoạt động như một Xí nghiệp, một thành
viên trực thuộc Công ty May 10 và chịu sự hạch toán của Công ty May 10.
Đến ngày 1/7/1997, Công ty may Phù Đổng đã được tách ra và
hoạt động độc lập (hạch toán độc lập).
Tên giao dịch : PHU DONG GARMENT COPANY
Tên viết tắt : PHU DO GARCO
Trụ sở chính : Km7 - quốc lộ 5 - Gia Lâm - Hà Nội
Điện thoại : 04.8765573
Fax : 04.8767235
25

Trích đoạn Đặc điểm về máy móc thiết bị: Tình hình tiêu thụ sản phẩm: Cơ cấu thị trường theo chủng loại sản phẩm: Chất lượng sản phẩm: Đối thủ cạnh tranh:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status