Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam - Pdf 38

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Nguồn lực con người nói chung và nguồn nhân lực, xét trên khía cạnh
độ tuổi lao động là nguồn lực cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội. Trên
phạm vi rộng hơn thì “ Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác
nhân và là mục đích của sự phát triển” [48]. Nhận thức được vai trò của
nguồn nhân lực, Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “ nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam
là nhân tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.
Mỗi một giai đoạn lịch sử, một trình độ phát triển đòi hỏi một nguồn
nhân lực phù hợp. Trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu hoá, nguồn nhân
lực có sức khoẻ, học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được coi là một
điều kiện để tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Việt Nam hiện
nay vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với nguồn nhân lực có qui mô lớn,
cơ cấu trẻ nhưng chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế. Do vậy việc
nghiên cứu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực sự là một đòi hỏi vừa
cấp bách, vừa cơ bản, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay cũng đã có nhiều nghiên cứu về con người, nguồn lực con
người như:“ Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” _ Phạm Minh Hạc ( chủ biên ), Nxb CTQG, HN, 1996; “ Bồi dưỡng và
đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới” _ Nguyễn Minh Đường
( chủ biên ); “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” của
1
Phan Huy Lê... Nói chung đây là những nghiên cứu xã hội học thuộc Chương
trình khoa học – công nghệ cấp Nhà nước KX-07: “ Con người Việt Nam –
mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” do GS.VS Phạm Minh
Hạc làm chủ nhiệm với sự tham gia của gần 300 nhà khoa học thuộc nhiều
chuyên ngành khác nhau. Ngoài ra còn có những ấn phẩm đề cập đến kinh

- Góp phần làm rõ khái niệm , vai trò và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế – xã hội .
- Phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
- Góp phần làm rõ những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nhân lực và đề xuất giải pháp cơ bản có tính định hướng nâng
cao chất lượng về mặt thể lực, trí lực nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong ba
chương:
Chương 1: Nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Chương 3 : Quan điểm và một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian tới.
3
Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. KHÁI NIỆM, CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT
LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC.
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người của
một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo nghĩa hẹp có thể lượng hóa được là
một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi qui định, có khả
năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm việc.
Độ tuổi người lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh
lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao
động được qui định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước và
trong từng thời kỳ. Tại Điều 6 và Điều 145 của Bộ Luật lao động nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định độ tuổi lao động của nam từ 15 – 60

- Trình độ xã hội hóa các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống và sự
phát triển kinh tế – xã hội. Dịch vụ nuôi dạy trẻ, nội trợ gia đình được xã hội
hóa cao và cơ hội việc làm dễ dàng hơn thì phụ nữ sẽ tham gia vào thị trường
lao động và làm các hoạt động xã hội nhiều hơn.
- Mức và nguồn thu nhập. Khi có nguồn thu nhập khác bảo đảm thỏa
mãn mọi nhu cầu, các cá nhân này sẽ không có nhu cầu làm việc và do đó
không tham gia vào nguồn lao động.
5
- Di dân và nhập cư. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự di dân
và nhập cư cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động. Tuy chiếm tỷ
trọng không lớn nhưng đây là một nguồn lao động đặc biệt trên thị trường, có
ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế – xã hội.
Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng số lượng nguồn
nhân lực cũng như nguồn lao động. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng
không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn nhân lực. Quan điểm dân số
tối ưu cho rằng: “ Một quốc gia muốn nền kinh tế phát triển cân đối và tốc độ
cao phải có qui mô, cơ cấu dân số thích hợp, phân bố hợp lý giữa các vùng”.
Điều đó có nghĩa là:
- Số lượng dân phù hợp với điều kiện thiên nhiên và trình độ phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước.
- Đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa số người trong độ tuổi với số người
quá tuổi và chưa đến tuổi lao động. Theo các nhà dân số học thế giới, một cơ
cấu thích hợp đảm bảo cho dân số ổn định tương ứng là 60-64%, 10-12% và
26-28%.
- Phân bố dân cư trên các vùng đảm bảo đủ nhân lực khai thác tài
nguyên và phát triển kinh tế – xã hội có hiệu quả. Có thể điều tiết phân bố dân
cư thông qua chính sách dân số và các chính sách kinh tế – xã hội.
Trong điều kiện các nước chậm phát triển, nhìn chung số lượng nguồn
nhân lực lớn không phải là một động lực cho sự phát triển vì rất hiếm những
người lao động và quản lý lành nghề. Hơn thế nữa, tốc độ tăng dân số cao

ở khía cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng
7
hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và
phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách
vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế và các quan hệ xã hội. Trong đó:
- Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự
chăm sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe
mạnh, thích nghi với môi trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng
yêu cầu của một hoạt động cụ thể nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết
định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con người mới có thể
phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
- Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình độ kiến
thức chuyên môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán
của mỗi con người. Trí lực thực tế là một hệ thống thông tin đã được xử lý và
lưu giữ lại trong bộ nhớ của mỗi cá nhân con người, được thực hiện qua nhiều
kênh khác nhau. Nó được hình thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo
cũng như quá trình lao động sản xuất.
- Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã
hội của nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán phong
cách, thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và
nghệ thuật..., gắn liền với truyền thống văn hóa. Một nền văn hóa với bản sắc
riêng luôn là sức mạnh nội tại của một dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong
phát triển kinh tế của Nhật Bản và các nước NICs châu Á là tiếp thu kỹ thuật
phương Tây trên cơ sở khai thác và phát huy giá trị tốt đẹp của nền văn hóa
dân tộc để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát
triển của nhau. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao cả
8
ba mặt: thể lực, trí lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại

Tỷ lệ biết chữ cao nhất của TG – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất của TG
Với a2 =
Tỷ lệ huy động đi học của nước i – Tỷ lệ huy động đi học thấp nhất TG
Tỷ lệ huy động đi học cao nhất TG- Tỷ lệ huy động đi học thấp nhất TG
IW là chỉ số thu nhập
Với Wmax là mức thu nhập theo đầu người cao nhất Thế giới, Wmin là
mức thu nhập theo đầu người thấp nhất Thế giới. Wi là mức thu nhập theo
đầu người của nước i.
Trong báo cáo phát triển con người (Hunman Development Report)
2001 quy định các chỉ số thấp nhất và cao nhất Thế giới như sau:
IE =
2a1 + a2
3
IW =
log(Wi) – log(Wmin)
log(Wmax) – log(Wmin)
10
Tuổi thọ : 25 năm và 85 năm.
Tỷ lệ biết chữ của người lớn : 0% và 100%.
Tỷ lệ huy động đi học : 0% và 100%
GDP/ người thực (PPP$) : 100 và 40.000
Ví dụ: Với cách tính trên, theo Báo cáo về phát triển con người năm
2001 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,682 với các số liệu tuổi thọ là 67,8 năm,
tỷ lệ biết chữ của người lớn là 93,1 và nhập học của các cấp giáo dục là 67%,
GDP bình quân đầu người theo PPP $ là 1860. [9, 171-302]
Ngoài chỉ số tổng hợp HDI, người ta còn dùng các hệ thống chỉ tiêu
dưới đây để đánh giá trực tiếp các khía cạnh khác nhau sức khỏe, trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực cũng như để thấy rõ nhân tố
ảnh hưởng đến nó ở hiện tại và trong tương lai.
Chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ

những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ văn hoá được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, không
chính quy, qua quá trình học tậo suốt đời của mỗi cá nhân và được đánh giá
qua hệ thống chỉ tiêu:
Thứ nhất, tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có
thể dọc viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc
hoặc tiếng nước ngoài so với tổng dân số 10 tuổi trở lên. Phương pháp tính:
12
Tỷ lệ biết chữ của dân
số từ 10 tuổi trở lên
= Số người 10 tuổi trở lên biết chữ trong năm xác định
x 100
Tổng dân số 10 tuổi trở lên trong cùng năm
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hoá ở mức tối thiểu
của một quốc gia. Các thống kê giáo dục trong nước và Thế giới hiện nay đều
sử dụng chỉ tiêu này.
Thứ hai, số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên đo
lường số năm trung bình một người dành cho học tập. Đây là một trong
những chỉ tiêu được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực của các quốc gia:
Phương pháp tính:
A =

i
ii
xa
Trong đó: A số năm đi học trung bình
a
i
các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng hoặc mỗi

tuổi cấp tiểu học, tức là những em từ 6 - 10 tuổi học cấp tiểu học trong tổng
số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học của dân số. Tương tự như vậy đối với các
nhóm tuổi THCS và THPT .
Phương pháp tính:
Tỷ lệ đi học đúng tuổi
cấp tiểu học
=
Số học sinh cấp tiểu học từ 6-10 tuổi
x 100
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi)
trong cùng năm
Các tỷ lệ cấp THCS và THPT tính tương tự.
Các chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục. Hệ
thống giáo dục hiệu quả cao có tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cao vì tỷ lệ học sinh
lưu ban, bỏ học thấp, và ngược lại. Ví dụ, ở nước ta, trong khi tỷ lệ đi học
chung ở bậc tiểu học năm 1996 là 114%, nhưng tỷ lệ đi học đúng độ tuổi (6-
10 tuổi) chỉ có 89%. Vì trong số học sinh tiểu học còn có (114% - 89% =
25%) học sinh không đúng tuổi; đó là những học sinh dưới tuổi do đi học
14
sớm, quá tuổi do đi học muộn, do bị lưu ban, do bỏ học. Tỷ lệ này càng cao
thì hiệu quả trong giáo dục càng lớn, chi phí cho một học sinh hoàn thành cấp
học thấp.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật ( CMKT )
Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương chức
vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động CMKT
bao gồm những công nhân kỹ thuật (CNKT) từ bậc 3 trở lên (có hoặc không
có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại hoc. Họ được đào tạo trong
các trường, lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng
(đối với CNKT không bằng) song nhờ kinh nghiệm thực tế trong sản xuất mà
có trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên. Các tiêu chí đánh giá trình độ

15
Là % số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với tổng số
lao động đang làm việc:
T
LV
ĐT
ij =
∑L
LV
ĐT
ij
x 100
∑L
LV
j
T
LV
ĐT
ij: Tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo bậc i so với tổng LĐ đang làm việc ở
vùng j.
L
LV
ĐT
: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.
L
LV
: Số lao động đang làm việc.
i : Chỉ số các cấp được đào tạo.
j: Chỉ số vùng.
L

lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự
học hỏi, thích ứng với nền sản xuất mới.
Bên cạnh mặt tích cực quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế thường
gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi trong lối sống. Các nghiên cứu cho
thấy quá trình đô thị hóa gắn liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ
lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của
người dân. Do thu nhập tăng lên và sự thay đổi trong lối sống nên ở các đô thị
tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước nghèo và của “mức sống
cao”. Hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “ gánh nặng gấp đôi”, ám chỉ
những khó khăn mà người dân và hệ thống y tế xã hội ở các nước đang phát
triển đang vấp phải.
17
Đối với các nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế như Việt Nam thì tác
động của những biến đổi kinh tế – xã hội đến chất lượng nguồn nhân lực còn
phức tạp hơn:
- Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cơ chế thị trường thay cho
quản lý tập trung đã làm cho nhiều ngành nghề, xí nghiệp lạc hậu phải giảm
qui mô và đóng cửa, thất nghiệp gia tăng làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của người lao động, gây nhiều hậu quả xã hội nghiêm trọng.
- Gắn liền với sự phát triển của cơ chế thị trường là bất bình đẳng về
thu nhập trong các tầng lớp dân cư, giữa các ngành cũng như vùng kinh tế.
Điều này chi phối rất lớn đến khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như
giáo dục, y tế. Những vùng kinh tế phát triển, người dân có thu nhập cao có
khả năng tiếp cận dễ dàng hơn người có thu nhập thấp. Hơn thế nữa một số
điều chỉnh chính sách của Nhà nước trong thời kỳ này như xóa bỏ hoặc giảm
bớt bao cấp từ ngân sách trong nhiều lĩnh vực càng làm cho vấn đề trên thêm
đậm nét.
- Việc tổ chức lại nền kinh tế và cơ cấu xã hội đã góp phần làm biến
đổi theo chiều sâu môi trường kinh tế – xã hội. Các cá thể và nhóm xã hội

Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển của hệ thống y tế và khả năng
tiếp cận của người dân có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe. Do thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế, qui mô và năng lực
của mạng lưới y tế tăng lên cùng với tiến bộ khoa học công nghệ trong y học
đã góp phần nâng cao sức khỏe, thể hiện ở tuổi thọ bình quân ngày càng tăng
cao. Tuy nhiên như người ta thường nói hệ thống y tế là xã hội thu nhỏ, điều
19
đó có nghĩa là khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế, đặc biệt là
dịch vụ y tế chất lượng cao là không đồng đều.
Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực thì mức độ
phát triển của giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng nhất vì nó không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao
động thực hành của người lao động, mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe
và tuổi thọ của người dân:
Thứ nhất, giáo dục góp phần vào tăng trưởng. Từ những năm 1970, với
lý thuyết về tỷ suất lợi nhuận, các nhà nghiên cứu đã xác định được tỷ lệ hoàn
trả của giáo dục sau đầu tư. Giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông
qua cả tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và
quan điểm của họ lẫn tích luỹ kiến thức. Vai trò của giáo dục có thể được
đánh giá qua tác động của nó đối với năng suất lao động được tính toán bằng
so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một
đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó được học một khoá đào tạo với
chi phí cho khoá đào tạo đó. Kết quả này được gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội
khi đầu tư vào giáo dục. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh tỷ suất lợi
nhuận của giáo dục rất cao ở những nước có thu nhập vừa và thấp.
Các nước Đông Á tăng trưởng nhanh đã đầu tư rất nhiều vào cả giáo
dục tiểu học lẫn trung học nhằm tăng cường chất lượng của lực lượng lao
động. Nỗ lực này được thực hiện do yêu cầu của mô hình kinh tế tăng trưởng
sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lao động và do đầu tư bổ sung vào

21
thức thích hợp và hiện đại, có kỹ năng và phong thái làm việc đáp ứng mọi
yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường khắc nghiệt và năng động. Đội
ngũ này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia một cách mạnh mẽ; (ii) Đối
với các vấn đề xã hội, ở những người được giáo dục thì mức độ phạm tội,
mất an toàn giao thông, trật tự xã hội thấp.
Có thể nói, phân tích lợi ích "cá nhân" và "xã hội" trên cơ sở lý thuyết
về "vốn nhân lực", chi phí giáo dục đã khắc hoạ rõ nét vai trò của giáo dục đối
với quá trình phát triển kinh tế – xã hội nói chung đặc biệt nâng cao chất
lượng cuộc sống và trí tuệ của nguồn nhân lực. Tóm lại, đầu tư vào giáo dục
sẽ nâng cao trình độ dân trí, góp phần làm tăng sức khoẻ, tích luỹ vốn con
người, là chìa khoá để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập.
Thứ hai, giáo dục đào tạo góp phần cải thiện sức khỏe và nâng cao tuổi
thọ của người dân. Giáo dục cung cấp trình độ văn hoá cơ bản là điều kiện để
tiếp thu tri thức, góp phần chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khoẻ. Giáo
dục cơ bản (trong phần lớn các nước là giáo dục tiểu học và trung học) phát
triển năng lực học tập, giải thích thông tin và thích nghi tri thức vào điều kiện,
môi trường sống của mỗi người. Đó là nền tảng cho việc học tập suốt đời
đóng góp vào việc chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khoẻ trẻ em và người
lớn, đồng thời nó cũng giúp giảm tỷ lệ chết và nâng cao tuổi thọ. Nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới ở 29 nước đang phát triển cho thấy rằng tỷ lệ chết
của trẻ sơ sinh và trẻ em có tương quan tỷ lệ nghịch với trình độ giáo dục của
các bà mẹ: trung bình cứ mỗi năm học bình quân giảm được 9% tỷ lệ chết của
trẻ em và trẻ sơ sinh.
Giáo dục cơ bản như vậy rất quan trọng cho việc nâng cao những năng
lực của dân chúng để tiếp thu và vận dụng tri thức. Báo cáo phát triển nguồn
nhân lực của UNDP đã cảnh báo rằng: không có nước công nghiệp hoá giàu
22
có nào đạt tăng trưởng có ý nghĩa trước khi hoàn thành phổ cập giáo dục
trung học. Hơn nữa sự thành công của các nước công nghiệp hoá mới như

nghiệp mới. Những ngành công nghiệp này đã tạo ra những "cầu" lớn về kỹ
sư và công nhân kỹ thuật cao. Ở nước ta, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long
đã góp phần quan trọng vào nâng cao năng suất lúa ở khu vực này.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.2.1. Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người, phát triển toàn diện con người là cơ sở lý luận chủ yếu nhất, quan
trọng nhất cho việc nghiên cứu nhân tố con người. Khi nói đến nhân tố con
người là nói tới mặt hoạt động của con người - mặt cơ bản nhất, quyết định
mọi thuộc tính, biểu hiện đặc trưng của con người. Sự tác động của nhân tố
con người có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử.
Tiến bộ xã hội không phải là một quá trình tự động, mà phải thông qua hoạt
động của đông đảo mọi người trong xã hội. Con người là nhân vật chính của
lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. Do đó, để
nghiên cứu nhân tố con người phải xuất phát từ nhận thức đúng đắn về con
người. Nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải
vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình, đồng
thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả của mọi nguồn tài sản vô giá ấy.
Trên phương diện đó, vai trò nhân tố con người lao động trong lực lượng sản
xuất không phải là toàn bộ nhân tố con người nói chung, mà là nhân tố năng
động nhất, sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Chỉ có nhân tố con người mới
24
có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất, tác động vào đối tượng sản xuất
làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay
đổi quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác, nhằm mục đích ngày càng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người và toàn bộ xã hội.
Con người là một bộ phận của tự nhiên. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, con người không ngừng tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên,
qua đó làm biến đổi chính bản thân con người.
Trong điều kiện hiện nay, con người không những ngày càng muốn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status