Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh cao bằng - Pdf 38

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỦY TIÊN

CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành

: Chính sách công

Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trần Thị An

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trong luận văn “Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” là trung thực. Những
ý kiến khoa học trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Phụ lục........................................................................................................... 68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của mỗi đất nước, văn hóa được coi như một nguồn
lực, một nguồn vốn có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững. Ở Việt
Nam, nguồn vốn văn hóa được biểu hiện ở hệ thống di sản văn hóa vật thể và
di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa là những gì được sáng tạo trong quá
khứ và truyền lại cho thế hệ sau, là những sáng tạo của cha ông, thể hiện được
chiều sâu của dân tộc, mang tính lịch sử.
Tầm quan trọng của di sản văn hóa được thế giới đặc biệt quan tâm từ
sau Chiến tranh thế giới thứ 2 khi nhiều di sản - bằng chứng của nền văn hóa
trong quá khứ - bị phá hủy và có nguy cơ biến mất hoàn toàn. Tuy nhiên, lúc
ấy thế giới mới chỉ chú ý đến di sản văn hóa vật thể và phải qua một thời gian
khá dài di sản văn hóa phi vật thể mới được quan tâm toàn diện trong chính
sách bảo vệ di sản của thế giới và của các quốc gia. Sự ra đời của chính sách
văn hóa phi vật thể đã thể hiện cam kết mạnh mẽ của các quốc gia phải có
những hành động khẩn trương và mạnh mẽ, đúng đắn để bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể của các quốc gia trên thế giới.
Chính vì vậy, bảo vệ di sản nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói
riêng đang là vấn đề được quan tâm tại rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.
Với đặc thù là một tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế khó khăn, tỉnh Cao
Bằng nằm trong tốp cuối của cả nước về phát triển kinh tế. Chính vì vậy các
chủ trương, chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể đã
được ban hành nhưng do gặp các rào cản về kinh phí, về chất lượng nguồn
nhân lực và cả nhận thức về văn hóa nên chính sách chưa thực sự được triển

1


sống văn hóa, đời sống xã hội của mỗi quốc gia, do con người tạo ra, được kế
thừa, giữ gìn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) là cuộc chiến tranh gây tổn
thất nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Không chỉ có nền kinh tế, cơ sở hạ
tầng bị phá hủy mà di sản văn hóa cũng phải gánh chịu sự tàn phá. Nhận thấy
nguy cơ các di sản văn hóa có thể bị hủy diệt, năm 1954, Công ước bảo vệ di
sản văn hóa trong sự kiện xung đột vũ trang (The convention for protection
cultural heritage in event armed conflict) ra đời, thể hiện sự quan tâm của thế
giới đối với vấn đề này. Lời nói đầu của Công ước này đã khẳng định “bảo vệ
di sản văn hóa là điều rất quan trọng đối với tất cả mọi người trên thế giới và
quan trọng là di sản đó phải nhận được sự bảo vệ tầm quốc tế”. Như vậy, đây
là lần đầu tiên vấn đề bảo vệ di sản văn hóa nói chung đã được đặt ra trên
phạm vi thế giới, chủ yếu tập trung vào các tài sản văn hóa bất động (movable
cultural heritage) như: công trình kiến trúc (monuments of architecture), di
chỉ khảo cổ (archaeological sites) (rất gần với phạm trù “di sản văn hóa vật
thể” (tangible cultural heritage) ngày nay. Đến năm 1952, văn hóa dân gian một phạm trù của di sản văn hóa phi vật thể lần đầu tiên được đề cập đến khi
UNESCO phê chuẩn Công ước về quyền tác giả (Copyright Convention). Mối
quan hệ giữa văn hóa dân gian và quyền tác giả được nghiên cứu trong nhiều
năm và có bước tiến nổi bật ở Hội nghị Stockholm năm 1967. Hội nghị này
đã cố gắng tạo ra việc bảo vệ văn hóa dân gian ở mức độ toàn cầu bằng một
Công ước riêng nhưng đã không thành công.
Phải đến 4 năm sau đó, vào năm 1971, tổ chức UNESCO mới có những
bước chuẩn bị đầu tiên cho việc xây dựng văn bản pháp lí về bảo vệ văn hóa
dân gian thông qua văn kiện mang tên “Khả năng thiết lập các văn kiện quốc
tế để bảo vệ văn hóa dân gian” (Posibility establishing international
instrument to protect Folklore). Năm 1989, UNESCO đưa ra văn kiện có tính
3



mất. Luật này được sửa đổi bổ sung vào các năm: 1954, 1975 và 2004. Năm
1954, tài sản văn hóa phi vật thể được nhìn nhận một cách toàn diện hơn với
quan niệm là những tài sản có giá trị cao về nghệ thuật và lịch sử thay vì có
nguy cơ bị biến mất. Năm 1975 khi sửa đổi lần thứ 2 đã bổ sung hai phạm trù
“folk- cultural properties” (văn hóa dân gian) và “tranditional conservation
techniques for culture properties” (bảo vệ các kĩ năng truyền thống). Lần sửa
đổi tiếp theo vào năm 2004, phạm trù “kĩ năng nghề thủ công dân gian” (folk
craft techniques) được đưa vào Luật. Như vậy, Luật bảo vệ tài sản văn hóa
của Nhật Bản sau nhiều năm sửa đổi bổ sung đã hoàn thiện dần khái niệm tài
sản văn hóa phi vật thể.
Ở khu vực châu Phi, việc nhận thức và xây dựng Luật bảo vệ di sản
văn hóa muộn hơn. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi châu Phi là khu vực bị duy
trì chế độ thuộc địa lâu nhất trên thế giới. Phải đến cuối những năm 90 của thế
kỉ XIX, các quốc gia Châu Phi mới giành được độc lập. Sau đó các quốc gia
này mới có điều kiện quan tâm đến việc bảo vệ di sản văn hóa, ví dụ như tại
điều 55 (khoản 1) của Hiến pháp năm 1987 của Cộng hòa Ethiopia đã ghi
nhận: “công dân Ethiopia có nghĩa vụ bảo vệ và trông coi của cải xã hội.
Công dân Ethiopia có nghĩa vụ tham gia cùng nhà nước, cố gắng cùng xã hội
bảo vệ, sưu tầm, giữ gìn các vật thể có tầm quan trọng về lịch sử cũng như
bảo vệ di sản tự nhiên và trông coi các hiện vật (…)”. Tuy nhiên, trong giai
đoạn này, phần lớn các nước Châu Phi mới chỉ nhận thức được việc bảo vệ di
sản văn hóa vật thể, còn di sản văn hóa phi vật thể chỉ có sau khi Công ước về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Liên hợp quốc ra đời năm 2003. Công
ước này có hiệu lực khi nhận được văn kiện phê chuẩn của 30 quốc gia đầu
tiên phê chuẩn vào năm 2003, trong đó có đến 13 quốc gia của Châu Phi.
Một số nước ở châu Âu và châu Mỹ có những cách nhìn nhận khác về
việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Hà Lan là một quốc gia phát triển ở
5



diện của một loại hình di sản trong hệ thống di sản văn hóa, mà bảo vệ để lưu
giữ những giá trị mà nó đem đến cho cộng đồng. Giá trị ấy là động lực thúc đẩy
mỗi quốc gia có những hành động tích cực bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Việc cụ thể hóa di sản văn hóa phi vật thể là một điều khó khăn bởi nó
không có hình dáng nhất định nhưng có thể thấy con người chính là nơi chứa
đựng những di sản văn hóa đó. Những di sản này không hiện hữu một cách rõ
ràng như một ngôi chùa, hay một công trình kiến trúc mà cần có con người sử
dụng, truyền tải thì người khác mới biết đến sự tồn tại của nó. Nếu những
người cuối cùng lưu giữ di sản đó mất đi thì những di sản ấy cũng sẽ biến
mất. Vì vậy, con người là trung tâm của di sản văn hóa phi vật thể
2.2. Tình hình nghiên cứu chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam
Tại Việt Nam mặc dù đến năm 2001 mới có Luật Di sản văn hóa nhưng
việc bảo vệ di sản văn hóa đã được đặt ra trước đó khá lâu. Các bộ Luật thời
trung đại (Quốc triều hình luật - đời Lý; Lê triều hình luật - Luật Hồng Đức,
thời Lê; Hoàng Việt luật lệ - Luật Gia Long, thời Nguyễn) và các bộ sử, chí,
lục thời trung đại (Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục, Việt sử thông
giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí, Đại
Nam thực lục…) có thể thấy, các vị vua phong kiến xưa cũng đã ý thức được
việc phải bảo vệ các di sản văn hóa. Đặc biệt là các công trình kiến trúc tôn
giáo thể hiện sự tôn nghiêm, uy quyền của thần thánh, của nhà vua, được xây
dựng với công sức đóng góp của toàn dân, thể hiện tài năng, trí óc, tâm linh,
tình cảm, niềm tin, hi vọng của các vương triều cũng như cộng đồng nhân dân
được hết sức giữ gìn.
Đến thời kì lịch sử hiện đại, văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề này là
Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 ngày 11 năm 1945 của Chính phủ nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa “Ấn định nhiệm vụ của Đông phương bác cổ học viện”. Sắc

7



Tính đến tháng 6 năm 2015, Việt Nam đã có 08 Di sản Văn hóa và
Thiên nhiên Thế giới, 10 Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
được UNESCO công nhận. Nhận thức được vai trò của cộng đồng trong công
tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thế giới (quy định tại Công ước về
Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Điều 5); Công ước về Bảo vệ
Di sản văn hóa phi vật thể (Điều 2, khoản b Điều 11 và Điều 15) và các văn
bản hướng dẫn, chương trình, mục tiêu chiến lược của UNESCO), những năm
qua, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động hướng tới cộng đồng.
Tóm lại, có thể nhận thấy so với di sản văn hóa vật thể thì di sản văn
hóa phi vật thể được quan tâm muộn hơn. Phải đến đầu những năm 90 của thế
kỷ XIX vấn đề bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể mới được tổ chức văn hóa –
giáo dục lớn nhất toàn cầu đề cập đến. Từ đó đến nay, UNESCO và các quốc
gia trong đó có Việt Nam đã có hàng loạt các hành động tích cực, khẩn trương
để bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể.
Từ thực tiễn ban hành chính sách bảo tồn văn hóa ở Cao Bằng, có thể
thấy, Cao Bằng đã ban hành một số văn bản chính sách và các kế hoạch hành
động cụ thể. Chương trình số 17- CTr/TU ngày 09 tháng 6 năm 2006 của
Tỉnh uỷ về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc của
Cao Bằng cũng như các văn hiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ
XVI, XVII, nhất là Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XVIII đã đánh giá
“Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc được quan tâm;
thực hiện dự án làng văn hóa Tày Khuổi Ky (Đàm Thủy, Trùng Khánh), làng
nghề Phia Chang (Phúc Sen , Quảng Uyên), đề tài nghiên cứu dân ca, dân vũ
của người Sán Chỉ... khôi phục và nâng cao nội dung một số lễ hội”. Văn kiện
Đại hội Tỉnh Đảng bộ khóa XVIII đã nêu rõ “Thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết số 33-NQ/TƯ ngày 9 tháng 6 năm 2014 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
9


3.1. Mục đích
Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Cao Bằng. Từ đó, đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách đó ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
3.2.1. Nhiệm vụ tổng quát
Từ lý thuyết chính sách văn hóa, luận văn sẽ khảo sát thực tiễn ban
hành và triển khai thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa phi vật thể ở Cao
Bằng, chỉ ra những thành công, hạn chế, đề xuất các vấn đề cần hoàn thiện
của chính sách.
3.2.2. Nhiệm vụ cụ thể
- Hệ thống hóa tài liệu lý thuyết về chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới và cách tiếp cận ở Việt Nam.
- Nghiên cứu tình hình ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Cao
Bằng nói riêng.
- Đánh giá mặt đạt được và chưa được của việc ban hành và thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở tỉnh Cao
Bằng, để từ đó đề xuất những kiến nghị chính sách.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tỉnh
Cao Bằng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Cao Bằng.
-Thời gian: Từ 2006 đến 2015.

11




+ Các văn bản: Nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách của Nhà nước
về Di sản văn hóa phi vật thể.
+ Số liệu thứ cấp: Các số liệu về tên, địa chỉ các di sản văn hóa phi vật
thể tại tỉnh Cao Bằng.
+ Số liệu sơ cấp: Tác giả luận văn tự thu thập thông tin qua điều tra
thực tế tại các địa chỉ có di sản, tư liệu tại Bảo tàng tỉnh, Hội Bảo tồn dân ca
tỉnh Cao Bằng và Hội Di sản văn hóa Cao Bình thành phố Cao Bằng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa lý thuyết về chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể.
- Đánh giá mặt đạt được và chưa được thực trạng ban hành và thực hiện
chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng hiện nay.
- Từ thực tiễn đề xuất, khuyến nghị bổ sung, hoàn thiện chính sách bảo
tồn và phát huy giá trị đối với Di sản văn hóa phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng để
di sản phi vật thể được phát huy giá trị, tiềm năng vốn có của nó, đưa di sản
văn hóa phi vật thể là nét truyền thống văn hóa đặc sắc của vùng miền, địa
phương đặc biệt là đối với tỉnh Cao Bằng.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về chính sách và chính sách văn hóa phi vật thể
Chương 2. Thực trạng thực hiện công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Cao Bằng

13


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH

công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al, 1999).
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson, 2003).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng
như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những
chương trình (Kraft and Furlong, 2004).
Từ các quan niệm trên (Nguyễn Hữu Hải – Lê Văn Hòa, 2013, Đại
cương Phân tích Chính sách công - sách chuyên khảo, NXB Chính trị Quốc
gia, trang 17, 18) chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà
nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính
sách nói chung của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt
động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng
hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng
để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền
kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý
nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách
khác chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch
định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
15


nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản

trí, tái tạo sáng tạo.
Từ đặc điểm này, có thể định nghĩa về chính sách văn hóa: “Chính sách
văn hóa là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà nước trong
lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn của đời sống văn hóa
theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu
phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các
điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội”.
1.1.3. Khái niệm Chính sách Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể
1.1.3.1. Khái niệm văn hóa
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa. Trong “Thập kỷ thế giới
vì sự phát triển văn hóa”, ông Phederico Mayor Laragoza nguyên Tổng giám
đốc UNESCO đưa ra khái niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt
động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Định nghĩa này rất phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh nêu ra
cách đó trên 40 năm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó, tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. (Hồ Chí Minh, Toàn tập,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H, 1995, tập 3, trang 43)
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm cho
rằng: Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích
17


luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị

- Tính lịch sử với những đặc trưng của thời đại và đại diện cho thời đại
sinh ra chúng, nền văn minh và kỹ thuật tái tạo chúng;
- Tính truyền thống lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không
chỉ bản thân di sản mà cả những giá trị phi vật thể đi cùng với chúng cũng
được truyền sang thế hệ sau bằng mô phỏng, phát triển và sáng tạo mới trên
nền của di sản cũ;
- Tính nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng dưới các tác động khác nhau, dễ
dàng bị hư hỏng, bị phá hủy và bị mai một đi do những tác động khác nhau
của con người, của điều kiện thời tiết, các phản ứng hóa học… Trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã sáng tạo và để lại
hàng nghìn di tích có giá trị.
1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể
ở Việt Nam hiện nay
Bảo tồn di sản văn hóa là một vấn đề được quan tâm ở Việt Nam trong
những năm gần đây. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em,
mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa tạo nên sự đa dạng và phong phú
trong kho di sản chung của cả nước.
Cách đây 68 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 65, ngày 23
tháng 11 năm 1945 về việc “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Sắc
lệnh khẳng định quan điểm đúng đắn của Chính phủ đối với vai trò và ý nghĩa
quan trọng của di sản trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Tại văn bản số 4739/KG-TƯ ngày 26 tháng 8 năm 1994, Thủ tướng
Chính phủ đã cho phép Bộ Văn hóa thông tin triển khai Chương trình mục
tiêu quốc giá về văn hóa, bao gồm mục tiêu Chống xuống cấp và tôn tạo di
tích, Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể. Chương trình này đã
20


thu được những thành tựu đáng kể trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa
Việt Nam.

truyền”. Hoặc Điều 26: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với
nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí
quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”.
Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định lấy ngày 23
tháng 11 hằng năm là “Ngày Di sản văn hóa Việt Nam”.
Trong những năm qua, việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể
ở Việt Nam đã được chú trọng và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Trên phạm
vi toàn quốc, các địa phương đều có chính sách bảo tồn giá trị văn hóa phi vật
thể của địa phương mình.
Trên phạm vi quốc gia, công tác bảo tồn Di sản văn hóa Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng,
phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, đặc biệt 10 di sản văn
hóa phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh, công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại gồm:
1. Nhã nhạc cung đình Huế, di sản văn hóa thế giới phi vật thể đầu
tiên tại Việt Nam, được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa
phi vật thể thế giới vào tháng 11 năm 2003, đến năm 2008 được công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
2. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được công nhận là
kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm 2005, đến
năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
3. Dân ca Quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại, được công nhận ngày 30 tháng 9 năm 2009.
4. Ca trù là di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, được
công nhận ngày 01 tháng 10 năm 2009.
22



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status