Đánh giá kết quả điều trị ARV và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân điều trị ARV tại bệnh viện bệnh nhiệt đới trung ương từ tháng 102007 đến tháng 42012 - Pdf 39

Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /1

Phần A - Tóm tắt các kết quả nổi bật của đề tài
1. Kết quả nổi bật của đề tài
Sau quá trình phân tích và tổng kết kết quả từ 716 bệnh án thu thập
tại PKNT-BVBNĐTƯ trong giai đoạn từ tháng 10/2007 đến tháng
4/2012, trong đó có 693 bệnh án phù hợp điều kiện để chọn vào nghiên
cứu chúng tôi đã tìm ra một số kết quả nổi bật như sau:
Về tỉ lệ bệnh nhân còn sống và vẫn tiếp tục điều trị ARV: Tỉ lệ bệnh
nhân còn sống và tiếp tục ARV tính từ thời điểm bắt đầu điều trị vào năm
2008, 2009, 2010 và 2011 đến 4/2012 lần lượt là 89,5; 93,6; 88,4; 94,8 và
98,6%.
Kết quả về lượng tăng trung vị tế bào CD4: Trung vị tế bào CD4 của
toàn bộ bệnh nhân trong nghiên cứu này luôn tăng lên trong suốt quá trình
54 tháng điều trị. Tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV trung vị CD4 là 90 tế
bào/mm3, sau sáu tháng đầu trung vị CD4 tăng lên xấp xỉ 190 tế bào/mm 3
và đạt được > 250 tế bào/mm3 sau 18 tháng, sau 54 tháng đạt được hơn
400 tế bào/mm3.
Chúng tôi đã khảo sát sự tăng của trung vị tế bào CD4 ở các nhóm
bệnh nhân bắt đầu điều trị ở các mức CD4 khác nhau bao gồm các nhóm
có CD4 ≤ 100; 101-250 và >250 tế bào/mm 3 trong thời gian 54 tháng điều
trị. Chúng tôi đã đưa ra được biểu đồ tổng hợp về sự tăng của trung vị tế
bào CD4 của các nhóm nêu trên, giúp các bác sĩ lâm sàng tiên đoán được
số lượng CD4 có thể đạt được của bệnh nhân sau mỗi 6 tháng dựa trên số
lượng CD4 ban đầu của bệnh nhân.
Kết quả về tải lượng virut: theo hiểu biết của chúng tôi, đây là nghiên
cứu đầu tiên tổng kết về kết quả điều trị bằng HIV VL sau một khoảng
thời gian dài 54 tháng tại Việt Nam. Tỉ lệ bệnh nhân đạt được HIV VL



Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /3

lâm sàng ước lượng được lượng tế bào CD4 có thể đạt được của các bệnh
nhân sau mỗi 6 tháng điều trị.
Hiệu quả về kinh tế.
Áp dụng từ biểu đồ lượng tăng trung vị tế bào CD4: Dựa vào kết
quả đạt được từ biểu đồ của sự tăng trung vị của tế bào CD4 các nhà lâm
sàng học và các nhà hoạch định chính sách có thể ước lượng được số
lượng thuốc dự phòng NTCH thứ phát và tiên phát như Cotrimoxazol,
Intraconazol và Fluconazol cho nhóm bệnh nhân cần phải điều trị để mua
cho đúng và tiết kiệm kinh phí.
Hiệu quả về xã hội.
Áp dụng từ tỉ lệ sống sót sau các năm: Qua quá trình phân tích số
liệu nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỉ lệ sống và tiếp tục điều trị của bệnh
nhân sau 1 năm (nhóm bắt đầu ARV từ 2011) là 98,6%; sau 2 năm (nhóm
bắt đầu ARV từ 2010) là 94,8; sau 3 năm (nhóm từ bắt đầu ARV từ 2009)
là 88,4% và nhóm sau 4 (nhóm từ bắt đầu ARV từ 2009) là 93,6%. Kết
quả này sẽ giúp khích lệ bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tin tưởng vào một
tương lai tốt đẹp, tuổi thọ trung bình tăng lên cùng với ARV.
Áp dụng từ kết quả về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị
ARV: Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng những bệnh nhân điều trị sớm sẽ có
kết quả tốt, kết quả này sẽ giúp cho những đối tượng nằm trong nhóm đối
tượng có nguy cơ cao bị HIV đi xét nghiệm sàng lọc sớm, và điều trị sớm
để đạt kết quả tốt hơn.
2. Đánh giá thực hiện đề tài đối chiếu với đề cương nghiên cứu đã
được phê duyệt.
Tiến độ - đúng tiến độ.

Đề xuất liên quan đến đề tài.


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /5

Tỉ lệ thất bại điều trị ở nghiên cứu này thấp hơn nhiều so với giai
đoạn từ 2005-2007 ở chính tại PKNT. Chúng tôi rất mong muốn VAAC
quan tâm và hỗ trợ kinh phí để Bệnh Viện có thể báo cáo về tình hình điều
trị ARV tại PKNT những năm trước đó, đặc biệt là mô tả kỹ hơn về sự trì
hoãn đổi ARV (do không có thuốc, hoặc không có phương tiện đánh giá)
dẫn đến đột biến kháng thuốc tích lũy và kết quả cuối cùng là bệnh nhân
thất bại cả phác đồ bậc hai và hậu quả là bệnh nhân tử vong.


Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương

Đặt vấn đề /6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Theo báo cáo của UNAIDS, số lượng người sống chung với
HIV/AIDS (NCH) trên thế giới vẫn đang tiếp tục tăng và đã đạt đến xấp
xỉ 33 triệu người cuối năm 2009. Số người người nhiễm mới trong năm
2009 là 2.6 triệu, số lượng NCH đã tăng từ 8 triệu năm 1990 lên tới 33
triệu năm 2009. Đặc biệt, số lượng nhiễm mới hàng năm và số người chết
nguyên nhân do AIDS giảm đi đáng kể do số người được điều trị liệu
pháp thuốc kháng virút (ART) tăng nhanh [40].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tính đến cuối năm 2008 ước

2000 NCH đã nhận được dịch vụ chăm sóc điều trị ngoại trú tại đây và
tích luỹ có khoảng 1050 bệnh nhân đã được điều trị ART.
Đáp ứng với sự tăng lên nhanh chóng về số lượng bệnh nhân, với sự
tiến bộ của thế giới về công cuộc chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS
BVNĐTƯ cũng đã được trang bị nhiều máy móc, kỹ thuật mới, hiện đại
phục vụ cho việc chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS như máy đếm tế bào
CD4 các loại, chẩn đoán nhiễm trùng cơ hội như kỹ thuật nội soi phế quản
để tìm căn nguyên gây bệnh đường hô hấp, đếm tải lượng virút HIV, giải
trình tự gen để chẩn đoán xác định HIV kháng thuốc.
Trong giới hạn hợp tác nghiên cứu với Nhật Bản, bệnh nhân điều trị
ARV tại PKNT – BVBNĐTƯ đã được kiểm tra xét nghiệm CD4, tải
lượng virút mỗi mỗi 6 tháng, chính vì vậy hiệu quả điều trị của bệnh nhân
được đánh giá rất chính xác. Mặc dù BVBNĐTƯ là đơn vị đầu tiên áp
dụng đo tải lượng virút thường quy, nhưng cho đến nay cũng chưa có báo
cáo cụ thể nào về kết quả điều trị ART xác định bằng đo tải lượng HIV tại
Việt Nam.
Được sự đồng ý, giúp đỡ và ủng hộ của ban giám đốc BVNĐTƯ, sự
tài trợ của Cục Phòng Chống HIV/AIDS, các cán bộ làm việc tại PKNT
của bệnh viện chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá kết quả điều


Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương

Đặt vấn đề /8

trị ARV và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân điều trị ARV tại Bệnh
viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương từ tháng 10/2007 đến 4/2012”.
Mục tiêu nghiên cứu
1.


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /9

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tình hình điều trị ARV và những tiến bộ đạt được về ARV trên
thế giới và tại Việt Nam
1.1.1 Trên thế giới
Kể từ khi ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào năm 1981tại
Mỹ, căn bệnh truyền nhiễm này đã là nỗi kinh hoàng cho nhân loại
nguyên nhân là do số người nhiễm HIV được phát hiện ở khắp các nước
trên thế giới và cũng bởi chưa có thuốc chữa khỏi HIV.
Tuy vậy chỉ ít năm sau đó các nhà khoa học đã phát hiện ra thuốc ức
chế HIV đầu tiên vào năm 1987 và liên tiếp sau đó là rất nhiều thuốc và
nhóm thuốc kháng HIV với tiến bộ vượt bậc như sau:
Năm 1987, thử nghiệm điều trị đầu tiên với thuốc AZT
(Azydothimidine) được thực hiện.
Năm 1989 người ta đưa ra các hướng dẫn điều trị AZT cho những
người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS trên cơ sở số lượng tế bào TCD4
của người bệnh.
Đến năm 1996, thế giới bắt đầu sử dụng phác đồ điều trị phối hợp ít
nhất ba loại thuốc (HAART). Chương trình điều trị thuốc ARV từ đó đã
làm giảm đáng kể các trường hợp tử vong do AIDS, ước tính từ năm 1996
đến hết năm 2009 đã có khoảng 14,4 triệu năm tuổi thọ được cứu sống
nhờ điều trị ARV [20].
Hiện nay thuốc kháng HIV, có rất nhiều loại và rất đa dạng bao gồm
5 nhóm sau [12]:
- Nhóm 1: Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside.
- Nhóm 2: Thuốc ức chế men sao chép ngược không nucleoside.

trên thế giới HIV VL được coi là xét nghiệm thường quy của bệnh nhân
điều trị ARV, xét nghiệm này có giá trị theo dõi và đánh giá về sự ức chế
HIV VL của ARV.


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /11

Cuối cùng, chúng ta cũng phải kể đến xét nghiệm giải trình tự gen để
chẩn đoán HIV kháng thuốc khi bệnh nhân đang điều trị ARV. Xét
nghiệm này sẽ được chỉ định cho các bệnh nhân có nồng độ HIV VL >
1000 copy/mm3 để xét nghiêm sự đột biến kháng thuốc của HIV giúp các
nhà lâm sàng học có thể lựa chon loại thuốc ARV nhạy cảm với bệnh
nhân.
Tóm lại, trải qua hơn 30 năm, chúng ta phải thực sự ghi nhân sự tiến
bộ nhanh chóng trong công cuộc chẩn đoán, điều trị và theo dõi bệnh nhân
HIV/AIDS, giúp cải thiện cuộc sống, tăng tuổi thọ mong đợi của NCH
trên toàn cầu.
1.1.2 Ở Việt Nam
Hệ thống chăm sóc hỗ trợ người nhiễm HIV tại cộng đồng đã được
khởi động từ năm 1996 và chương trình điều trị chỉ tập trung vào các bệnh
viện tuyến trung ương như Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương và
Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Thành Phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2005
chương trình điều trị ARV mới thực sự được mở rộng dưới sự hỗ trợ về
kỹ thuật và tài chính của các chương trình như: Quỹ toàn cầu, Life-Gap và
tổ chức HAIVN.
Năm 2005, Bộ Y tế xuất bản cuốn ‘Hướng dẫn quốc gia về chẩn
đoán và điều trị HIV/AIDS’ lần đầu tiên và đề ra những quy định về
chuyên môn trong hoạt động điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam. Theo

giúp cho bệnh nhân có thể tiếp cận điều trị ARV sớm, dễ dàng. Gần đây
BYT cũng đã ban hành quy trình theo dõi và chẩn đoán thất bại điều trị
phác đồ bậc 1 và quy trình làm xét nghiệm đo tải lượng virus để giúp các
nhà lâm sàng học chẩn đoán sớm thất bại điều trị ARV bậc 1 cho bệnh
nhân [11].
1.2 Những nghiên cứu về đánh giá kết quả điều trị ARV trên thế giới
1.2.1 Những nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị ARV bằng tải
lượng virút trên thế giới


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /13

Xét nghiệm được dùng để đánh giá sự đáp ứng của điều trị ARV là
đo tải lượng virút HIV (VL), mục đích của việc điều trị ARV là làm giảm
VL trong máu dưới ngưỡng phát hiện [13], [54].
1.2.1.1 Những nghiên cứu trên thế giới về tải lượng virút trước
khi điều trị ARV.
Xét nghiệm được dùng để đánh giá sự đáp ứng của điều trị ARV là
đo tải lượng virút HIV (VL), VL của bệnh nhân ở thời điểm chẩn đoán
nhiễm HIV thường là rất cao. Trung vị tải lượng virút của bệnh nhân ở
thời điểm phát hiện ARV tại một phòng tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện
(VCT) ở một bệnh viện ở miền bắc Mozambique (bệnh nhân chưa hề
được điều trị ARV) là > 4,19 log 10 bản sao/ml chiếm tới 88,42%. Số còn
lại (11.58%) bệnh nhân là có VL > 400 bản sao/ml [51].
Theo một nghiên cứu khác ở Pháp trung vị VL thời điểm đăng ký
khám bệnh (chưa ARV) là 4.4 log10 bản sao/ml [24] và ở một nghiên cứu
khác tại Togo tại thời điểm ban đầu chưa ARV, thì trung vị VL là
2,8log(10) HIV-1 RNA bản sao/ml [53].

1.2.2.1 Những nghiên cứu về số lượng tế bào CD4 truớc khi điều
trị ARV trên thế giới
Mặc dù nhân loại đã chung sống với HIV/AIDS được hơn 30 năm,
nhưng hầu hết bệnh nhân phát hiện ra nhiễm HIV thường ở giai đoạn
muộn. Ở nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng bệnh nhân bắt đầu phát hiện nhiễm
HIV ở con số rất thấp trung vị lần lượt là 176 và 143 tế bào/ml ở các nước
đang và kém phát triển [57] hoặc có thể cao hơn là 313 tế bào/ml ở các
nước phát triển [24].
1.2.2.2 Những nghiên cứu về số lượng tế bào CD4 sau khi điều trị
ARV trên thế giới
Sau khi điều trị ARV số lượng tế bào CD4 sẽ tăng lên, mức độ tăng
này tủy thuộc vào từng cá thể, giai đoạn bệnh khi bắt đầu điều trị và loại
nhiễm trùng cơ hội mà bệnh nhân mắc. Số lượng tế bào CD4 tăng trung vị
265 tế bào/ml sau trung bình 36 tháng điều trị đã được báo cáo ở một


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /15

nghiên cứu ở Togo [54]. Khi bắt đầu ARV ở CD4 trung vị là 395 tế
bào/ml thì sau 6 và 9 năm điều trị số lượng tế bào CD4 tăng được thêm
trung bình lần lượt là 218 và 322 tế bào/ml [37].
1.2.3 Những nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị bằng lâm sàng
học trên thế giới
Theo như định nghĩa về mục đích điều trị ARV của HAIVN, sau khi
điều trị ARV bệnh nhân sẽ khỏe mạnh, ít và tiến tới không mắc các bệnh
nhiễm trùng cơ hội hay gặp phải ở người bị suy giảm miễn dịch mắc phải.
Thực tế đã chứng minh ở một nghiên cứu sau trung bình 36 tháng
điều trị, bệnh nhân đã tăng trung bình 8,8 kg, số bệnh nhân có bệnh nhiễm

điều trị là 93,7%, sau đó giảm nhẹ tại thời điểm sau 12 tháng điều trị
88,9%[18].
1.3.2 Những nghiên cứu về đánh giá kết quả điều trị ARV về lâm
sàng học ở Việt Nam
Những nghiên cứu ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy
rằng, hầu hết các bệnh nhân đều có diễn biến lâm sàng tốt, tăng cân, tỉ lệ
sống sót và tiếp tục duy trì ARV cao cụ thể là:
Nghiên cứu về thực trạng điều trị ARV tại tỉnh Đắc Lắc (2009) cho
kết quả: hầu hết bệnh nhân tiếp cận với ARV khi đã ở giai đoạn lâm sàng
3, 4; bệnh nhân có tiến triển về cân nặng rất rõ rệt, sau 24 tháng đạt được
cân nặng trung bình của một người Việt Nam khỏe mạnh [21].
Kết quả phân tích hồ sơ bệnh án của 1072 bệnh nhân tại một số tỉnh
ở Việt Nam do Nguyễn Văn Kính và cộng sự thực hiện năm 2008-2009
cho kết quả: cân nặng trung bình của bệnh nhân so với thời điểm bắt đầu
điều trị tăng 2 kg; tỷ lệ bệnh nhân duy trì phác đồ bậc 1 sau 12 tháng là
89,8%, sau 24 tháng là 87,1% [14].
Trong một nghiên cứu khác tại 30 phòng khám ngoại trú được lựa
chọn ngẫu nhiên tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam do CPC
HIV/AIDS thực hiện năm 2010 đưa ra kết luận: tỷ lệ duy trì điều trị ARV
tương đối tốt sau 12 tháng nhưng thấp hơn ở nhóm nghiện chích ma túy


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /17

[8]. Hay một nghiên cứu tại Thanh Hóa năm 2010 ở trên cũng đưa ra kết
quả: sau 6 tháng điều trị, 85,2% bệnh nhân đã hết nhiễm trùng cơ hội,
trung bình cân nặng tăng 3,1kg [17].
Nghiên cứu đánh giá kết quả chương trình điều trị ARV tại huyện

ART với mức độ khác nhau [47], [41], [31], [23]. Tuy vậy tại Việt Nam
chủng HIV – 1 là phổ biến vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ
không đề cập đến chủng virút là yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị
ARV.
Sự đột biến kháng thuốc cũng đã được ghi nhận trên những bệnh
nhân chưa điều trị ARV bao giờ. Tỉ lệ này là cao hơn ở các nước phát
triển và thấp hơn ở các nước đang phát triển [39], [58], [38], [49], [43].
Chính vì vậy có những bệnh nhân không đáp ứng với ARV ngay cả ở lần
đầu tiên điều trị. Trong nghiên cứu này, bệnh nhân không được xét
nghiệm VL và xét nghiệm gen kháng thuốc trước khi điều trị ARV vì vậy
yếu tố này cũng không được phân tích và đề cập đến.
Thứ 3 là bệnh nhân có thể bị lây nhiễm chủng HIV đã kháng thuốc từ
người khác, chính vì vậy khi chưa điều trị ARV thì thuốc cũng đã không
có hiệu quả. Hơn nữa, trong qua trình điều trị, bệnh nhân tuân thủ thuốc
rất đều nhưng do bệnh nhân vẫn tiếp tục có hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV từ người khác như: quan hệ tình dục không an toàn, tiêm chích
matuý chung dụng cụ vì vậy đã lây chủng HIV kháng thuốc từ người khác
và kết quả là cũng bị kháng thuốc.
Tóm lại, yếu tố về virút học là yếu tố đầu tiên và rất quan trọng trong
việc quyết định lựa chọn phác đồ ARV cũng như yếu tố ảnh hưởng đến
kết quả của ART. Tuy vậy do điều kiện không cho phép, chúng tôi sẽ đề
cập vấn đề này ở những nghiên cứu trong tương lai.
1.4.1.2 Các nghiên cứu về các yếu tố về bệnh nhân ảnh hưởng
đến kết quả điều trị trên thế giới


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /19



Yếu tố về thuốc cũng đóng vai trò quan trọng trong sự liên quan đến
kết quả điều trị ARV đó là loại phác đồ mà bệnh nhân được bắt đầu điểu
trị và tiền sử bệnh nhân tự dùng ARV.
Yếu tố đầu tiên được nhắc đến là loại phác đồ ARV mà bệnh nhân
được bắt đầu điều trị cù thể là số lượng viên thuốc trong phác đồ được sử
dụng, tác dụng phụ của ARV, sự hoàn chỉnh của phác đồ điều trị làm ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân và ảnh hưởng đến
kết quả điều trị [13].
Ở Việt Nam hầu hết bệnh nhân được bắt đầu điều trị bằng những
phác đồ cơ bản là tương tự nhau, tùy thuộc vào thời gian điều trị như đã
nêu ở mục 1.1.1.2 theo hướng dẫn của Bộ Y Tế. Bởi vậy trong khuân khổ
nghiên cứu này chúng tôi không đề cập đến các loại phác đồ làm ảnh
hưởng đến kết quả điều trị.
Yếu tố được chứng minh có liên quan đến kết quả điều trị ARV và
cũng là một yếu tố quan trọng đó là: tiền sử điều trị ARV trước khi bệnh
nhân đựoc quản lý và theo dõi tại cơ sở liên quan đén kết quả điều trị
ARV.
Những bệnh nhân có tiền sử điều trị ARV trước đó sẽ bị thất bại điều
trị về virút học hơn những bệnh nhân khác đã được chứng minh ở một
nghiên cứu ở Mỹ [51]. Hay sự khác biệt về kết quả điều trị ARV đã được
chứng minh là có ý nghĩa thống kê khi so sánh 2 nhóm có tiền sử điều trị
ARV trước và không có tiền sử điều trị ARV trước [26],[35].
Trong nghiên cứu này tất cả bệnh nhân đến PKNT-BVBNĐTƯ đều
được đối xử theo một chế độ như nhau, vì vậy yếu tố về nhân viên y tế
ảnh hưởng đến kết quả điều trị sẽ được chúng tôi bỏ qua.


Cục phòng chống HIV/AIDS


2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tất cả những bệnh nhân tham gia điều trị
ARV tại PKNT-BVBNĐTƯ từ tháng 10/2007 đến tháng 4/2012 được ≥ 6
tháng, có được làm xét nghiệm đo HIV VL.
2.2 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ được tiến hành tại phòng khám ngoại trú (PKNT) của
Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương (BVBNĐTW) từ tháng 6 năm
2012 đến tháng 12 năm 2012.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ được tiến hành theo phương pháp cắt ngang, có
phân tích. Toàn bộ dữ liệu sẽ được lấy từ bệnh án có sẵn của bệnh nhân và
nhập vào bệnh án nghiên cứu được chúng tôi thiết kế phù hợp với nghiên
cứu. Sau đó được nhập vào phần mềm SPSS 16.0 để xử lý và phân tích số
liệu.
2.3.2 Cỡ mẫu và kỹ thuật sẽ sử dụng
2.3.2.1 Cỡ mẫu
Lấy toàn bộ thông tin của các bệnh nhân đang và đã điều trị ARV tại
PKNT của BVBNĐTƯ đủ tiêu chuẩn nêu trên bao gồm cả những bệnh
nhân tử vong, bệnh nhân bỏ trị, bệnh nhân chuyển đi, bệnh nhân đang
điều trị ARV thỏa mãn các tiêu chí sau:


Tuổi > 18.


Cục phòng chống HIV/AIDS

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học số 31 /23


Những kỹ thuật phân tích 2 biến như: T-test, Chi-squard sẽ được sử
dụng để phân tích sự khác biệt trong kết quả điều trị trong từng yếu từng
yếu tố liên quan.
2.4 Các chỉ số nghiên cứu
2.4.1 Các chỉ số về lâm sàng
Cân nặng của bệnh nhân ở thời điểm trước điều trị ARV và sau mỗi
6 tháng điều trị.
Giai đoạn lâm sàng, NTCH, tiền sử mắc Lao của bệnh nhân ở thời
điểm trước khi điều trị ARV tại PKNT-BVBNĐTƯ.
Tiến sử điều trị ARV trước khi đến điều trị tại PKNT-BVBNĐTƯ.
Tỉ lệ bệnh nhân còn sống và tiếp tục điều trị ARV, bệnh nhân chết,


Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Trung Ương

Đối tượng & phương pháp nghiên cứu /24

bệnh nhân bỏ trị tính đến thời điểm tháng 4/2012 sau 12, 24, 36, 48 tháng
điều trị.
2.4.2 Các chỉ số về xét nghiệm
Số lượng tế bào CD4 của bệnh nhân tại thời điểm trước điều trị ARV
tại PKNT-BVBNĐTƯ và sau mỗi 6 tháng sau khi điều trị ARV.
HIV VL của bệnh nhân ở thời điểm 6,12,18, 24, 30, 36, 42, 48 và 54
tháng điều trị ARV.
2.5 Hạn chế của nghiên cứu
Do toàn bộ dữ liệu của nghiên cứu được lấy từ bệnh án có sẵn của
bệnh nhân tại PKNT của BVBNĐTƯ nên những thông tin có phần hạn
chế, không được như mong muốn.



56

21,6
57,0
13,4
8,0
34,5
18-75

nhất
Theo bảng 3.1, số lượng bệnh nhân ở nhóm tuổi 31-40 tuổi chiếm tỉ
lệ cao nhất (57,0%), số bệnh nhân ở nhóm tuổi ≥50 tuổi chiếm tỉ lệ thấp
nhất (8,0%). Tuổi trung vị của bệnh nhân trong nghiên cứu là 34,5 tuổi,
bệnh nhân trẻ nhất là 18 tuổi và bệnh nhân lớn tuổi nhất là 75 tuổi.



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status