HẠN CHẾ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU - Pdf 40

1

CHƢƠNG 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.1.1. Đặt vấn đề
Toàn cầu hóa, một xu thế tất yếu mà Việt Nam không nằm ngoài quy luật
chung đó. Điều đó được thấy rõ nhất trong thời gian qua khi Việt Nam lần lượt là
thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại, văn hóa, xã hội của quốc tế và khu
vực. Toàn cầu hóa đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích trên tất cả các mặt trong
đó có kinh tế như là cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài,
hợp tác song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực với nhiều quốc gia khác
nhau, kinh tế tăng trưởng khá; năm 2013 tăng trưởng GDP đạt 5,4% …..Bên cạnh
những lợi ích mà toàn cầu hóa đã mang lại thì những mặt trái của toàn cầu hóa cũng
tác động mạnh mẽ đến Việt Nam trong những năm qua. Đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế. Cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra năm 2008 đến nay nó
đã trải qua hơn 5 năm đã làm các chỉ số kinh tế biến động liên tục và đầu tư xã hội
thì ngày càng teo tóp. Còn lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực chịu tác động
nặng nề trong hơn 5 năm qua. Với số lượng nợ xấu tăng lên qua các năm, theo
moondy’s con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã lên tới hơn 15% năm 2013.
Đặc biệt ngay từ trước khi được thành lập 7/9/2013, Công ty quản lý tài sản
(VAMC) được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực cho toàn hệ thống ngân
hàng. Tuy nhiên, sau gần 2 năm chính thức hoạt động, số nợ xấu mà VAMC mua
được từ các tổ chức tín dụng tính đến đầu tháng 10/2014 là 93.000 tỷ đồng nhưng
mới bán lại được khoảng 1.500 tỷ. Một con số đáng báo động về tình hình kinh
doanh tiền tệ hiện nay tại Việt Nam.
1.1.2. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu là một trong
những ngân hàng hàng đầu trong khối NHTMCP ở nước ta, tình hình kiểm soát tín
dụng thời gian qua cũng được xem là khá tốt. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay,
việc ngân hàng đang đối mặt với những khó khăn về kinh doanh, đặc biệt là tỷ lệ nợ
xấu đang có xu hướng ngày càng tăng lên ăn mòn tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng.

cũng có một số ít đề tài nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, nổi bật:
1) Trần Bảo Toàn (2007): “Analysis of the Vietnamese Banking Sector


3

with special reference to Corporate Governance” Luận án tiến sĩ kinh tế, trường
Đại học Kinh tế St. Gallen Thụy Sĩ. Nghiên cứu này đã đặt trọng tâm vào phân tích
quản trị ngành ngân hàng tại Việt Nam. Trong đó tại chương 3, tác giả đã đề cập
đến vai trò thị trường thứ cấp để xử lý nợ xấu. Đó là nguồn để xử lý nợ xấu phải
theo nguyên tắc lấy thị trường nuôi thị trường bằng cách tạo ra thị trường nợ thứ cấp
để sử dụng đồng bộ các thiết chế quản trị nợ sẵn có như các Công ty Quản lý nợ và
Khai thác tài sản (AMC) ở các Ngân hàng thương mại, Công ty mua bán Nợ và Tài
sản tồn đọng (DATC) của Bộ Tài chính, thị trường chứng khoán…, các công cụ tài
chính phi tiền tệ, công cụ tiền tệ và cả phương tiện phi vật chất như không gian, thời
gian, kinh nghiệm và uy tín để tạo nguồn xử lý nợ xấu.
2) Báo cáo của ngân hàng Standard Chartered (2013): "VietnamNavigating the macro landscape‟‟ ngày 26/2/2013 trong đó tập trung phân tích về
vấn đề nợ xấu cùng các kịch bản tác động, cũng như phác thảo về các kênh tài trợ
giải quyết nợ xấu. Báo cáo cho rằng quy trình phải được thực hiện theo bốn bước
chính để có thể giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả: Một là ghi nhận nợ xấu; Hai là
trích lập dự phòng đầy đủ; Ba là tái cấp vốn; Bốn là kiểm soát rủi ro.
3) Báo cáo của Tổ chức Ngân hàng Thế giới (WB) (2013):
TakingStock_Presentation_Dec2013_VN‟‟ trong đó có để cập đến vấn đề cải cách
khu vực ngân hàng. Báo cáo cũng nêu rõ những rào cản khiến cho khu vực ngân
hàng còn mong manh. Đó là: nợ xấu còn cao do quan ngại về công khai tài chính và
minh bạch; phân loại nợ chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế; Nhà nước còn nắm giữ
cổ phần lớn trong các ngân hàng; cần quan tâm các quy định về phá sản, vỡ nợ và
quyền của người cho vay.
4) Bài phát biểu của Ông Sanjay Kalra, đại diện Thường trú của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) Việt Nam tại hội nghị "VietNam Development Partner Ship

vay trong hoạt động cho vay của NHTM.
3) Nguyễn Thiên Phụng (2013) “Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Bình Thạnh” luận văn thạc sĩ kinh tế,
trường ĐH Ngân hàng TP.HCM.
Công trình tập trung nghiên cứu các nguyên nhân gây ra nợ xấu ở các
NHTM, thực trạng hạn chế và xử lý nợ xấu ở đơn vị cũng như đề xuất các giải pháp
để hạn chế và xử lý nợ xấu.


5

4) Đỗ Thị Thu Quỳnh (2012), “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại
ngân hàng TMCP công thương Việt Nam – chi nhánh 1 Tp.HCM”, luận văn thạc sĩ
kinh tế, trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Công trình này tập trung đánh giá về thực trạng rủi ro tín dụng và công tác
quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thường chi nhánh 1 – TP.HCM. Từ đó,
đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng này.
5) Trần Thị Thu Tâm (2006), “Hoàn thiện công tác xử lý nợ tồn đọng tại hệ
thống ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
Kinh tế Tp.HCM.
Đề tài nghiên cứu với mục đích hoàn thiện công tác xử lý nợ tồn đọng tại hệ
thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề
tài trên là tương đối xa do đó các số liệu cho đến thời điểm hiện tại đã lạc hậu
không mang tính thời sự cao.
6) Trần Thị Hồng Thắm (2011), “Giải pháp xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn
của ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh”, Luận văn thạc sĩ, trường
Đại học Kinh tế TP.HCM.
Công trình này tập trung đánh giá kết quả kinh doanh của các ngân hàng
thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Đồng thời nghiên cứu tình hình cho vay, thu
nợ, tình hình nợ quá hạn và tình hình thu nợ quá hạn của một số ngân hàng thường

cung cấp một tập hợp các kinh nghiệm quốc tế đa dạng về xử lý nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng trong vài chục năm qua trên nhiều vùng lãnh thổ, chế độ kinh tế
khác nhau, từ đó chia sẻ về phương án xử lý nợ xấu của Việt Nam hiện nay và gợi
ý các chính sách tăng cường hiệu quả của chính sách này.
Ngoài ra tác giả còn đọc và tham khảo các công trình nghiên cứu như “Giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng
Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”, hay “Một số giải pháp nâng cao
khả năng thu nợ tại Ngân hàng Công thương” …Những đề tài này tập trung nghiên
cứu về nâng cao chất lượng tín dụng nói chung hoặc các đề tài nghiên cứu về khả
năng thu nợ của ngân hàng
Tóm lại, các đề tài nghiên cứu về nợ xấu cho Ngân hàng Thương Mại Cổ
phần Á Châu chưa có hoặc có thì hầu hết lấy số liệu cũ, chưa có sự cập nhật mới.
Các đề tài trong nước và nước ngoài nêu trên khi đề cập đến vấn đề nợ xấu, mỗi nhà
khoa học có cách tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo quan điểm của tác giả
để giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu ngoài vấn đề phải xây dựng hệ thống ngân hàng


7

vững mạnh, một yếu tố quan trọng trong quá trình xử lý nợ xấu đó là phải xác định
rõ nguồn gốc xâu xa dẫn đến nợ xấu và coi vấn đề nợ xấu là hệ lụy của cả nền kinh
tế chứ không chỉ của riêng ngành ngân hàng và phải có lộ trình xử lý nợ xấu cụ thể.
Do đó không chỉ riêng ngành ngân hàng mà tất cả các bộ ngành liên quan phải cùng
nhau ngồi lại để tìm ra hướng đi chung xử lý “cục máu đông” này. Vì thế việc
nghiên cứu đề tài này là một yêu cầu khách quan và rất khẩn trương nhằm giúp các
nhà hoạch định chính sách có một cách nhìn cụ thể và hệ thống để đưa ra những giải
pháp đúng đắn nhất nhằm góp phần thành công cho quá trình xử lý nợ xấu tại ngân
hàng. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài „„Hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Á Châu” để nghiên cứu.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia;
- Phương pháp điếu tra, khảo sát;
- Phương pháp tổng hợp.
1.6. Những đóng góp mới của luận văn
Bài văn phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu của ACB, sẽ giúp cho các nhà
quản trị ACB có cái nhìn tổng quát hơn về thực trạng hoạt động hạn chế và xử lý nợ
xấu của ngân hàng.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của bài luận sẽ cung cấp một tài liệu tham
khảo cho các nhà quản trị ACB.
Đồng thời, bài luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm giúp cho ACB nâng
cao được hiệu quả hoạt động hạn chế và xử lý nợ xấu, hiệu quả hoạt động kinh
doanh và nâng cao vị thế của ngân hàng .
1.7. Bố cục luận văn
Đề tài nghiên cứu tuân theo quy định về bố cục luận văn của nhà trường. Vì
vậy luận văn được thiết kế với kết cấu thành 5 chương:
Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Cơ sở lý luận về nợ xấu ở ngân hàng thương mại và quản trị nợ
xấu tại các ngân hàng thương mại.
Chương 3: Phân tích thực trạng nợ xấu tại ngân hàng TMCP Á Châu và
phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Kết luận và kiến nghị


9

Kết luận chƣơng 1
Chương 1 đã tiến hành đưa ra lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên
cứu, nội dung và phương pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó một nội dung không kém
phần quan trọng của chương này đó là tác giả đã hệ thống hóa được các công trình

- Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế
chấp ở Ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ
không thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ.


11

- Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần
bồi hoàn ít hơn dư nợ.
 Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc
Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp
vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày
nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán
đầy đủ. Về cơ bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày
và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ.
 Theo định nghĩa của Việt Nam
Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 về phân loại tài sản có,
mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thông tư này sẽ thay thế Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày
22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và
Quyết định 18 ban hành ngày 25/4/2007 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 493.
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các nhóm nợ trên có
các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tuy có nhiều khái niệm khác
nhau nhưng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa
trên hai yếu tố: (i) Các khoản dư nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả
nợ của khách hàng được xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ được thanh toán đầy
đủ.

mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo
quy định.
Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con
của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín
dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản đảm bảo bằng cổ phiếu
của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp.


13

Nợ không có bảo đảm được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá
5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho
khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định.
Nợ cấp cho công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh
nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn
theo quy định.
Nợ có giá trị vượt quá giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép vượt
giới hạn, theo quy định của pháp luật.
Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và
các tỷ lệ đảm bảo an toàn với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách
dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra.
Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) sẽ bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến
360 ngày; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; Nợ phải thu
hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa
thu hồi được...
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ

Như vậy, nợ xấu trong hoạt động tín dụng NHTM là hiện tượng phát sinh từ mối
quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay (khách hàng) không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng đúng hạn.
Nợ xấu nói chung được xem như một dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn. Tuy
nhiên, thực tế một khoản nợ xấu thì cho biết rất ít vấn đề, để xác định bản chất vấn
đề phải tìm hiểu được nguyên nhân của khoản nợ đó. Nếu khoản nợ xấu là một biểu
hiện của việc khách hàng không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể
khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có nguy cơ không cứu vãn được. Nếu
khoản nợ chỉ hình thành do việc tiêu thụ hàng hóa hoặc thu hồi các khoản phải thu


15

chậm hơn dự tính hoặc do việc chậm trễ không tính trước được trong việc chuyển từ
khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ trên thị trường, thì vấn đề chưa đến mức nghiêm
trọng.
Bản chất của nợ xấu gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng – đây là
mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có quan hệ với
nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ và hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian
nhất định quay về với người cho vay với giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Do
đó, tín dụng được tạo nên từ 3 yếu tố chính là: lòng tin, thời hạn của quan hệ tín
dụng và sự hứa hẹn hoàn trả. Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng việc sử
dụng giá trị đó sẽ thu được lượng giá trị lớn hơn, có tính hiệu quả hơn sau một thời
gian nhất định.
Như vậy, có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, trước hết vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời
hạn, sau nữa nó vi phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự
đổ vỡ lòng tin của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng.
2.1.4. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu

tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp và tạo ra
các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.
Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn cầu
hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ
bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tài
chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào trong nền
kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều.
2.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan
* Từ phía ngân hàng


17

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân
hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín
dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho vay
thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng phương
hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác, không đầy đủ và không
nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn tới rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín dụng.
Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án xin vay
thì họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay. Hoặc người cán
bộ tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh
mà mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng sinh lời cũng như những
rủi ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng vì một lý do nào đó vẫn cố ý
cho vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong
những trường hợp như vậy thì khả năng mất vốn của Ngân hàng là rất cao.
Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi vay
hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra về tình



Đối với nền kinh tế

Nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế do ứ đọng vốn, sản xuất kinh doanh đình trệ.
Nợ xấu tùy theo tính chất và mức độ, không chỉ ảnh hưởng tới Ngân hàng mà
còn cả tới các doanh nghiệp, các cá nhân liên quan và toàn bộ nền kinh tế. Trên giác
độ vĩ mô, nợ xấu làm giảm tính tích cực của tín dụng đối với nền kinh tế, cản trở
NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Việc điều tiết vĩ môt kinh tế thông qua các NHTM cũng trở nên kém hiệu quả.
Ở mức độ trầm trọng, nợ xấu không chỉ gây mất vốn, mất khả năng thanh
toán dẫn tới sự sụp đổ không chỉ của một Ngân hàng mà còn kéo theo ảnh hưởng
dây truyền làm chao đảo toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Điều đó gây rối loạn lưu
thông tiền tệ trong nước, gây đình trệ sản xuất và khủng hoảng kinh tế
Lịch sử hoạt động của các NHTM trên thế giới đã chứng kiến không ít các
Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong phạm vi
một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực hay toàn châu lục.


19

Tóm lại, nợ xấu không những tác động đối với Ngân hàng mà còn nguy hại
đối với cả nền kinh tế, trật tự xã hội. Do đó, quan tâm quản trị nợ xấu không còn là
việc riêng của các NHTM mà là sự quan tâm chung của cả NHNN, Chính phủ và xã
hội.
 Đối với Ngân hàng:
Thứ nhất – làm giảm lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng của Ngân
hàng, lợi nhuận được hình thành từ những khoản thu của Ngân hàng mà những

Và như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả
năng thu hồi của ngân hàng
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi Ngân hàng
cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng xác định khó có khả năng thu
hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì
khả năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì Ngân hàng bị coi là có
chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín
dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ
số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác
chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản
ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là
những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân
hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của Ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro
có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các
khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù
đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của Ngân hàng
càng cao và ngược lại.
Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi Ngân hàng hoặc quốc gia trong
từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ
xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.


21

2.1.7. Sự cần thiết phải hạn chế, xử lý nợ xấu
2.1.7.1. Ảnh hưởng của "nợ xấu" tới hoạt động của các Ngân hàng thương
mại

phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu của toàn hệ thống là 76.000 tỷ đồng, nhưng không
nên trông chờ số tiền này để giải quyết nợ xấu. Lý do là phần lớn ngân hàng có nợ
xấu cao thì số dự phòng rất thấp và ngược lại, những ngân hàng lớn có dự phòng
"dày" nhưng nợ xấu lại không nhiều. Bên cạnh đó, tài chính của mỗi ngân hàng lại
tách biệt và không thể chuyển dự phòng của ngân hàng này sang cho ngân hàng khác.
Do vậy, trong số 76.000 tỷ đồng dự phòng rủi ro chỉ có thể sử dụng 20.000 - 30.000
tỷ đồng, số còn lại nằm ở các ngân hàng nợ xấu thấp và lẽ dĩ nhiên, không cho phép
mang tiền của họ đi để "trả đậy" cho những ngân hàng yếu kém kia được.
Có ý kiến khác cho rằng giá trị tài sản bảo đảm (TSBĐ) có thể mang ra xử lý
cho nợ xấu. Nhưng đây cũng lại là giải pháp không khả thi khi phần lớn tài sản đảm
bảo là nhà xưởng hay bất động sản thì đều mất thanh khoản nghiêm trọng, dù giá đã
giảm nhưng vẫn không thể bán. Thêm nữa, một bộ phận rất lớn nợ xấu đến từ
DNNN, nhưng đối tượng này không hề có TSĐB, hay nếu có cũng chỉ là máy móc,
nhà xưởng không thể giao bán do quá đặc thù về kỹ thuật.
Nhìn lại tình trạng tín dụng của 10 tháng đầu năm 2012 giống như "nước
trong bình rất nhiều, người xung quanh chết khát, nhưng vặn vòi thì nước không
chảy!". Nếu như trước đây, khi nới lỏng, tín dụng tăng tới 47 - 48%/năm, nhưng
năm nay, mặc dù NHNN "tha hồ" nới lỏng nhưng tín dụng cũng không tăng.
Lý giải vấn đề này, đó là do suy giảm lòng tin nghiêm trọng của các tổ chức
tín dụng và DN; và ngược lại, DN hạn chế vay do lo lắng khả năng hoàn trả. Hệ quả
đi kèm là tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE) của các ngân hàng giảm sút nhanh
chóng: ROE trung bình của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2009 đạt trên
10%, nhưng 6 tháng năm 2011 giảm còn 9%, và tới năm nay chỉ đạt 6%.
Tuy nhiên, những khó khăn gần như không thể tránh khỏi khi bắt tay xử lý
nợ xấu. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, để xử lý dứt điểm được nợ
xấu cần có nguồn tài chính rất lớn và số tiền này sẽ do Ngân hàng Phát triển, Kho
bạc Nhà nước và cả ngân hàng Trung ương sẽ phát hành trái phiếu, do vậy sẽ đẩy


23



24

2.2.3. Các biện pháp ngân hàng thương mại đã áp dụng để phòng ngừa và
xử lý nợ xấu
Nợ xấu luôn tồn tại song song với ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu được đặt ra là
phải xử lý các khoản nợ xấu sau khi đã phát sinh. Sau đây là một số biện pháp xử lý
nợ xấu
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân tích
thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng có
khả năng phát triển để thanh toán nợ xấu cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ áp dụng
biện pháp cấu trúc lại hay tái cơ cấu doanh nghiệp.
Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình thực hiện tái cơ cấu hoạt động sản xuất
kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh, tài chính
kém nhưng có khả năng phục hồi. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp được thực
hiện giữa các bên có liên quan: nhà đầu tư, nhà kinh doanh, Ngân hàng cho vay nợ
với mục đích cao nhất là hồi sinh, tăng giá trị cho doanh nghiệp.
Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp dụng
cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được quyết
định tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ với đối
tượng khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc giám sát chặt
chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành động cần thiết để cải thiện tình
hình của họ và sửa chữa sai sót. Đặc biệt, trong trường hợp không trả được nợ lần
đầu, Ngân hàng cần có hành động kiên quyết để thuyết phục khách hàng trong việc
thực thi các biện pháp cứng rắn để củng cố vị thế của khách hàng. Ngân hàng duy
trì mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để giám sát quá trình xử lý nợ. Trên cơ sở
đó, Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp:
Thứ nhất, điều chỉnh kỳ hạn nợ: Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường

hiệu quả rủi ro tín dụng.
Công nghệ chứng khoán hóa hấp dẫn nhiều Ngân hàng, bởi vì thông qua đó
mà Ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả năng thanh
khoản của tài sản, cung cấp một phương tiện tài trợ mới, giảm được các chi phí có
tính chất thuế cũng như tăng thu nhập từ thuế.



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status