Đề án tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị tăng cường quản lí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước - Pdf 43

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III

ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH VINH TỈNH BÌNH ĐỊNH

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III

ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH VINH TỈNH BÌNH ĐỊNH

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Như vậy, vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay của huyện THANH VINH
không chỉ là làm sao có được nhiều vốn để đầu tư cho tăng trưởng, mà quan trọng


hơn đó là phải có những giải pháp về quản lí đối với vốn ĐTPT từ NSNN để
nguồn lực vốn này được sử dụng có hiệu quả nhất, qua đó tạo ra sức hút vốn đầu tư
cũng như nâng cao hiệu quả của kinh tế huyện THANH VINH.
Vì những lí do trên, tôi chọn chủ đề “Tăng cường Quản lí vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước trên địa bàn huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH” làm
đề án tốt nghiệp cao cấp chính trị.
2. Mục đích và Ý nghĩa của đề án
2.1 Mục đích: trên cơ sở nhận thức lí luận về quản lí vốn ĐT từ NSNN, qua
phân tích đánh giá thực trạng quản lí vốn ĐT từ NSNN, đề án đề xuất các giải pháp
về quản lí đối với vốn ĐTPT từ NSNN ở huyện THANH VINH nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng phần vốn này.
2.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Đề án
Đề án góp phần làm phong phú thêm lý luận về quản lý vốn nói chung
và quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nói riêng, từ đó giúp cho đội ngũ cán bộ
trực tiếp và những người làm nhiệm vụ quản lý công tác đầu tư rút ra những
nhận thức chung về vấn đề này để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công
tác quản lý đầu tư và quản lý vốn đầu tư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là quá trình quản lí vốn ĐTPT từ NSNN.
Phạm vi nghiên cứu:
Nguồn vốn ĐTPT của nhà nước gồm có: Vốn NSNN, vốn của doanh
nghiệp nhà nước và vốn tín dụng ĐT của Nhà nước. Trong đó, vốn ĐT có nguồn
gốc từ NSNN gọi là vốn ĐT từ NSNN, và là phạm vi nghiên cứu của đề án này.
- Không gian: trên địa bàn huyện THANH VINH.
- Thời gian: thực trạng giai đoạn 2011-2013, giải pháp áp dụng cho giai
đoạn 2015-2020.

vốn ĐTPT từ NSNN nói riêng
- Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân
cấp quản lí nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.


- Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 về quản lí dự án đầu tư
xây dựng công trình.
- Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lí dự án đầu tư
xây dựng công trình.
- Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lí dự
án đầu tư xây dựng công trình.
-Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16/11/2004), phát huy quyền làm
chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát quá trình quản
lí và sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước, phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi
phạm chế độ quản lí tài chính, bảo đảm sử dụng có hiệu quả NSNN, thực hành
tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí.
-Tài liệu “Hướng dẫn công tác quản lí dự án đầu tư cho cấp huyện, xã
theo phân cấp” được biên soạn nhằm giúp cho các địa phương tổ chức, quản lí
và thực thi các quy định hiện hành của nhà nước về công tác quản lí dự án đầu
tư một cách thống nhất trên địa bàn tỉnh BÌNH ĐỊNH.
-Tài liệu “Hướng dẫn giám sát đầu tư cộng đồng”: Giám sát đánh giá
cộng đồng là hoạt động tự nguyện, có tổ chức của cộng đồng sinh sống trên địa
bàn xã để theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về đầu tư và xây
dựng, phát hiện và kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lí các việc làm vi phạm
quy định pháp luật về đầu tư và xây dựng trên địa bàn xã. Giám sát đầu tư cộng
đồng đối với các công trình đầu tư trên địa bàn xã là hoạt động cụ thể, thiết thực
nhằm thực hiện các quy định của Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng ban
hành theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ tướng

động của toàn bộ nền kinh tế. Quan điểm này nhấn mạnh tới yếu tố tích luỹ
trong đầu tư, kết quả đầu tư đem lại có tính vật chất, hiện hữu, và dễ đánh giá
được hiệu quả đầu tư.
- Theo quan điểm phát triển bền vững: Vốn đầu tư được hiểu là những khoản
chi tiêu cho cả ba trụ cột phát triển, đó là Kinh tế - Xã hội - và Môi trường. Sự gia
tăng về kết quả của đầu tư ở đây không chỉ là tài sản vật chất (như quan điểm kinh
tế vĩ mô nêu trên) mà còn bao gồm cả những kết quả phi vật chất như những kết
quả từ đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường, .v.v…. Theo quan điểm
này “Vốn đầu tư” được gọi là “Vốn đầu tư phát triển”.
Hai quan điểm nêu trên đều thống nhất ở chỗ, vốn đầu tư bỏ ra phải nhằm
mục đích đem lại một kết quả lớn hơn. Kết quả đó, theo quan điểm kinh tế vĩ
mô và Tài khoản quốc gia, phải là kết quả vật chất hiện hữu, đo đếm được, và vì
vậy giới hạn trong lĩnh vực đầu tư sản xuất vật chất. Còn theo quan điểm phát
triển bền vững, kết quả của đầu tư không chỉ là lĩnh vực vật chất mà bao gồm cả
lĩnh vực phi vật chất, kết quả đó có tính chất bao quát trên phạm vi rộng hơn,
bao hàm mối liên hệ phát triển giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, có những kết quả tăng lên rất khó đo đếm và định lượng hoá.


- Vốn ĐT từ NSNN được định nghĩa đó là vốn có nguồn gốc từ NSNN,
được nhà nước bỏ ra để thực hiện đầu tư làm gia tăng năng lực sản xuất nhằm
sau một thời gian nhất định thu về một hiệu quả KT-XH nhất định.
- Vốn ĐT từ NSNN có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Vốn ĐTPT từ NSNN luôn gắn liền với quyền lực của nhà nước: việc huy
động vốn vào ngân sách để ĐTPT thông qua chính sách thuế, phí của nhà nước
mang tính chất cưỡng chế. Việc sử dụng vốn này cũng phải thông qua cơ quan
quyền lực của nhà nước là Quốc hội và HĐND các cấp. Do vậy, vốn ĐTPT từ
NSNN được quản lí một cách chặt chẽ bằng hệ thống pháp luật về các lĩnh vực
như NSNN, đầu tư, đấu thầu, .v.v.. và được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan
quyền lực quản lí chuyên ngành như Chính phủ, UBND, hệ thống cơ quan tài

chăm sóc sức khoẻ ban đầu, ĐTPT vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn...). Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực này thể hiện vai trò quản lí, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước.
+ Đầu tư vào những lĩnh vực mang tính định hướng, dẫn dắt, hỗ trợ phát triển
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân: như đầu tư khuyến khích và định hướng đầu tư
để thu hút các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nhằm đem lại lợi ích tổng thể cho
quốc gia. Đó là hệ thống hạ tầng KT-XH, đặc biệt là hệ thống đường giao thông có
chức năng kết nối và tạo điều kiện khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng,
miền, đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đầu tư vào các
lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc..., hướng tới mục tiêu tăng
trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội.
1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
Vai trò đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Vốn ĐTPT từ NSNN là bộ
phận chiếm tỉ trọng khá lớn trong toàn bộ chi tiêu của Chính phủ, việc xem xét
một số cơ sở lí thuyết về tác động của chi tiêu Chính phủ đối với tăng trưởng
kinh tế sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn tác động vĩ mô của nguồn vốn này đối với
nền kinh tế.
Vốn ĐTPT từ NSNN là một trong những công cụ điều hành của Nhà nước,
góp phần điều tiết nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô: đầu tư từ ngân
sách nhà nước tạo nền tảng cho kinh tế phát triển, đồng thời thúc đẩy và dẫn
dắt đầu tư đối với các thành phần kinh tế khác. Chi ĐTPT từ NSNN là công
cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến các quá trình KTXH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước
Vốn ĐTPT từ NSNN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu của nền kinh
tế: Một trong những đối tượng đầu tư của vốn ĐTPT từ NSNN là đầu tư vào các
lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế của toàn bộ nền kinh tế. Đây là đặc điểm riêng có
của nguồn vốn NSNN mà các nguồn vốn ĐTPT khác không có được. Bất kì ngành


kinh tế nào, muốn phát triển được, trước hết phải dựa vào vốn đầu tư, nhất là

nhà nước: UBND tỉnh hướng dẫn lập dự toán ở địa phương. Sở Tài chính chủ
trì phối hợp với Sở KH&ĐT xem xét dự toán ngân sách của các đơn vị thuộc
tỉnh, dự toán thu do các cơ quan thuế, hải quan lập, dự toán thu chi cấp huyện,
trên cơ sở đó lập dự toán thu chi NSNN trên địa bàn tỉnh.
UBND cấp tỉnh lập dự toán, điều chỉnh, phân bổ, quyết toán NSĐP trình
HĐND cùng cấp phê duyệt. Căn cứ Nghị quyết của HĐND, UBND cấp tỉnh quyết
định một số chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu ngân sách trong trường hợp
không trái quy định của pháp luật; quyết định một số loại, mức lệ phí và các khoản
đóng góp của nhân dân phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.
2.1.2. Thực hiện vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước trong dự
toán ngân sách nhà nước: Đây là giai đoạn trọng tâm của quy trình quản lí vốn
ĐTPT từ NSNN. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc tổ chức
quản lí, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ĐTPT trên địa bàn tỉnh, còn
HĐND tỉnh thực hiện giám sát việc chấp hành ngân sách dành cho ĐTPT của
UBND và các đơn vị sử dụng ngân sách. Các sở, ban, ngành chịu trách nhiệm
trước UBND và HĐND cùng cấp về triển khai kế hoạch vốn ĐTPT thuộc phạm
vi mình quản lí.
2.1.3. Quyết toán vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
Vốn ĐTPT từ NSNN được thực hiện quyết toán theo dự toán NSNN
(quyết toán năm) và quyết toán theo công trình hoàn thành (thực hiện khi công
trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng).
2.2 MỤC TIÊU
2.2.1 MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Phát triển kinh tế ở huyện THANH VINH với nhịp độ tăng trưởng nhanh,
chất lượng cao và bền vững hơn so với giai đoạn trước. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng đẩy nhanh tỉ trọng dịch vụ, công nghiệp
và giảm tỉ trọng nông nghiệp. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế.
Ưu tiên phát triển giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ dân trí và chất lượng





PHẦN 3
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
3.1 THỰC TRẠNG QUẢN LÍ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở HUYỆN THANH VINH
Giai đoạn 2004-2014, công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN được thực
thi trong bối cảnh hệ thống pháp luật về quản lí NSNN và quản lí dự án đầu
tư đã được tiếp tục hoàn thiện một bước. Luật NSNN sửa đổi, bổ sung có
hiệu lực từ 2004, Luật đầu tư 2005, Luật doanh nghiệp 2005 cũng lần lượt
được ra đời. Đây cũng là giai đoạn thực hiện phân cấp mạnh giữa trung ương
và địa phương, việc phân bổ vốn ĐTPT cho các địa phương được thực hiện
thống nhất theo hệ thống tiêu chí do Chính phủ ban hành . Những chuyển
biến đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương nói chung và Đắc Song
nói riêng thực hiện tốt hơn công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN trên địa bàn.
Công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN trên địa bàn huyện Đắck Song được
xem xét trên một số nội dung cơ bản như sau:
3.1.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2013 trên địa
bàn huyện THANH VINH
Từ năm 2011-2013 UBND huyện Thanh Vinh được giao làm chủ đầu tư
72 công trình với tổng mức đầu tư 455.783.171.412đ; trong đó có 16 công trình
phê duyệt dự án đầu tư, 56 công trình phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật với
tổng kế hoạch vốn được phân bổ cho giai đoạn này là 190.255.326.000 đồng.
Bảng 3.1: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2013 trên địa
bàn huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH
STT
1
2
3
-

105.180.550.000
(Nguồn: Theo Báo cáo của UBND huyện THANH VINH)


3.1.2 Tình hình quản lý vốn đầu tư từ NSNN ở huyện THANH VINH
tỉnh BÌNH ĐỊNH.
3.1.2.1 Công tác lập kế hoạch chi đầu tư phát triển từ NSNN
Chi ĐTPT là một trong hai khoản chi từ NSNN (cùng với khoản chi
thường xuyên). Kế hoạch chi ĐTPT được lập trong quy trình lập ngân sách.
Hằng năm, Sở Tài chính tỉnh chủ trì phối hợp với các huyện, thị, các đơn vị dự
toán ngân sách tiến hành lập dự toán thu chi ngân cách cho từng cấp và lập dự
toán ngân sách cho toàn tỉnh. Sở Tài chính chủ trì tham mưu cho UBND tỉnh
bảo vệ kế hoạch ngân sách của tỉnh với Bộ Tài chính.
Sau khi kì họp Quốc hội cuối năm quyết định ngân sách cho các Bộ,
ngành, địa phương. Số liệu kế hoạch và dự toán do Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính
thông báo cho tỉnh chính là nhiệm vụ tài chính - ngân sách của địa phương trong
năm kế tiếp. Tại địa phương, thông qua HĐND các cấp sẽ tiến hành phân bổ và
quyết định ngân sách cho các đơn vị theo phân cấp.
Nhìn chung, việc lập ngân sách trên địa bàn huyện vẫn thực hiện theo cách
làm truyền thống, nên vốn ĐTPT từ NSNN chủ yếu tập trung vào các vấn đề chi
tiêu trước mắt. Giữa lập kế hoạch và lập ngân sách không có sự liên kết chặt
chẽ, việc quyết định các dự án đầu tư mới chưa được xem xét, cân nhắc đầy đủ
sự tác động của dự án đối với nguồn lực vốn. Việc phân bổ vốn ĐTPT từ NSNN
chưa thể hiện rõ nét những ưu tiên của huyện. Việc sử dụng vốn vẫn chưa quan
tâm đầy đủ đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
3.1.2.2. Công tác xây dựng văn bản quản lí vốn đầu tư phát triển từ
ngân sách nhà nước ở huyện Thanh Vinh.
Về lĩnh vực ngân sách, Luật NSNN được ban hành năm 2002, có hiệu lực
thi hành từ năm 2004. Luật NSNN đã quy định tăng quyền chủ động, quyền tự
chủ của các cấp ngân sách trong việc quyết định dự toán và chấp hành NSNN,

NSNN giai đoạn 2008 - 2010;
Nhìn chung, các văn bản quản lí do tỉnh ban hành đã bám sát được các yêu
cầu của các cơ chế, chính sách. Ban hành tương đối kịp thời, bổ sung ngày càng
đầy đủ hơn những điều kiện và đặc thù của địa phương, nâng cao tính phù hợp
với thực tiễn.Đây cũng là cơ sở pháp lý giúp cho huyện Đắk Song nâng cao
hiệu quả việc quản lý vốn đầu tư từ nguồn NSNN.
Tuy nhiên, kế hoạch vốn đầu tư hằng năm được UBND tỉnh giao sớm từ
cuối năm trước, song việc điều chỉnh, bổ sung kế hoạch còn diễn ra phổ biến,
đây cũng là một khó khăn cho các cơ quan quản lí cũng như chủ đầu tư và đơn
vị thi công trong việc triển khai kế hoạch được giao. Việc điều hành nguồn vốn
hiện nay chưa chuẩn hoá được để ứng dụng công nghệ thông tin, nên các cơ
quan quản lí mất khá nhiều thời gian công sức để theo dõi, quản lí các nguồn
vốn, dự án.


3.1.2.3. Việc quản lý đầu tư xây dựng:
Trong việc quản lý đầu tư UBND huyện Thanh Vinh đã ban hành Kế
hoạch số 13/KH-UBND ngày 30/3/2011 và một số văn bản liên quan quản lý
đầu tư xây dựng để triển khai thực hiện một số giải pháp tập trung kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn huyện. Việc lập, thẩm
định và phê duyệt điều chỉnh các hồ sơ của dự án cơ bản đảm bảo thời gian,
trình tự và thẩm quyền được qui định tại Luật Xây dựng, Nghị định
99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây
dựng, Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/2/2009 của Chính phủ về quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình và Quyết định số 12/2009/QĐ-UBND ngày
23/6/2009 của UBND tỉnh BÌNH ĐỊNH V/v phân cấp, ủy quyền quản lý dự án
đầu tư xây dựng công trình; Công tác mời thầu, tổ chức đấu thầu, xét thầu, thẩm
định phê duyệt kết quả đấu thầu cơ bản đảm bảo đúng theo quy định của Luật
Đấu thầu và các văn bản hiện hành hướng dẫn thực hiện Luật đấu thầu.
Tuy nhiên trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng công trình giai đoạn

hoạch và tiến độ, không bố trí chi khi chưa có nguồn, không chi ngoài dự toán gây
mất cân đối ngân sách. Đối với vốn ĐTPT từ NSĐP, huyện chủ động về nguồn chưa
cao do phụ thuộc tiến độ thu trong năm, tuy nhiên nguồn vốn này được điều hành
thường xuyên, số thu sau khi cân đối đều được các cơ quan tài chính làm thủ tục
chuyển nguồn để thanh toán, không để ứ đọng, dồn vốn vào cuối năm. Có được
bước chuyển biến tích cực đó là do có sự phối hợp khá tốt của các cơ quan tài chính,
kế hoạch và hệ thống kho bạc trên địa bàn.
Việc phân bổ kế hoạch vốn thuộc thẩm của UBND huyện Đăk quyền bố
trí Song trong 3 năm giai đoạn 2011-2013 là 53.046.394.000đ ; UBND huyện
Thanh Vinh đã thực hiện bố trí vốn, cụ thể như sau:
Bảng 3.2: Bảng phân bổ kế hoạch vốn từ ngân sách nhà nước cấp huyện
quản lý cho giai đoạn 2011-2013 trên địa bàn huyện THANH VINH
ĐVT: đồng
STT

Nội dung phân bổ

Số công
trình

I

Năm 2011

17

1

Công trình thanh toán nợ


Công trình thanh toán nợ
Công trình chuyển tiếp
Công trình mở mới
Tổng cộng

8
3
9
50

1
2
3

Vốn bố trí
16.567.777.000
1.120.740.00
0
10.818.257.00
0
4.628.780.00
0
14.899.852.00
0
4.704.000.000
1.653.240.000
8.542.612.000
21.578.765.000
2.632.000.00
0

Tuy nhiên, trong quá trình phân bổ vốn cũng có một số hạn chế bất cập,
như sau:
- Tỷ lệ bố trí vốn cho thanh toán nợ so với tỷ lệ bố trí cho các công trình
mở mới trong các năm còn thấp, cụ thể:
+ Năm 2011 bố trí vốn thanh toán nợ cho 3/17 công trình còn nợ, vốn bố trí
1.120.740.000đ/16.567.777.000đ chiếm 6,76%;
+ Năm 2012 bố trí thanh toán nợ cho 6/17 công trình còn nợ, vốn bố trí
4.704.000.000đ/14.8999.852.000đ chiếm 31,57%;
+ Năm 2013 bố trí vốn thanh toán nợ cho 8/17 công trình còn nợ, vốn bố trí
2.632.000.000đ/21.578.765.000đ chiếm 12,20%. Trong khi bố trí vốn cho các
công trình mở mới chiếm tỷ lệ cao (29.282.257.000đ/53.046.394.000đ) chiếm
55,20% trên tổng số vốn được bố trí trong 03 năm 2011-2013, cụ thể: năm 2011
mở mới 06 công trình vốn bố trí 4.628.780.000đ/16.567.777.000đ chiếm
27,94%; năm 2012 mở nới 04 công trình vốn bố trí
8.542.612.000đ/14.899.852.000đ chiếm 57,33%, năm 2013 mở mới 09 công
trình vốn bố trí 16.110.765.000đ chiếm 74,66%.
- Chưa ưu tiên bố trí vốn cho các công trình thanh toán nợ và các công
trình dự kiến hoàn thành trong năm, cụ thể:
+ Có 02 công trình năm 2010 đã hoàn thành đưa vào sử dụng (đường vào
bãi chôn chất thải rắn huyện Thanh Vinh và đường giao thông liên xã Đăk HòaĐăk Mol) nhưng bố trí vốn thanh toán nợ kéo dài đến năm 2012 quá 03 năm so
với quy định


+ Có 07 công trình hoàn thành trong năm nhưng không được ưu tiên bố trí
vốn (năm 2011: 02 công trình, năm 2012: 03 công trình, năm 2013: 02 công
trình), gồm: công trình đường từ UBND xã Thuận Hạnh đến ĐBP 765, công
trình lưới điện khu vực trung tâm xã Đăk Hoà, Nhà làm việc Tổ tiếp nhận và
hoàn trả hồ sơ theo cơ chế một cửa UBND huyện Thanh Vinh, Đường GT xã
Nâm N’Jang, Đường giao thông Tổ dân phố 2 thị trấn Đức An, San ủi mặt bằng
đường nội khu dân cư TT Đức An.

2008 -2010.
Việc phân cấp mạnh trong quản lí đầu tư xây dựng đã tạo sự chủ động cho
các UBND huyện, thị xã. Nhưng hiện nay Đắk Nông chưa có cơ chế kiểm soát
việc thực thi quyền phân cấp của các huyện, thị, như vậy đang có những khoảng
trống quản lí. Điều này trong quản lí ngân sách dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền
được phân cấp hoặc dễ xảy ra sai phạm. Phân cấp nói chung phải phù hợp với
năng lực cán bộ, và phải gắn với công tác đào tạo, sử dụng cán bộ thực thi
quyền được phân cấp, điều này rất cần thiết đối với một tỉnh mà trình độ cán bộ
còn hạn chế như Đắc Nông.
3.1.2.6 Vốn đầu tư bị chiếm dụng
Ngày 19/7/2010, Ban quản lý các dự án huyện THANH VINH ký hợp
đồng thi công xây dựng số 25/2010/HĐ-XD với Công ty Cổ phần Hưng Thịnh
(đại chỉ số 16A, đường Phùng Hưng, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk) với giá
trị hợp đồng 2.212.682.000đ. Trong đó có nội dung tạm ứng: sau khi nhận được
bảo đảm thực hiện hợp đồng, chủ đầu tư sẽ ứng trước cho nhà thầu 45% giá trị
hợp đồng, tương đương với số tiền 1.000.000.000đ. Số tiền tạm ứng sẽ được
chủ đầu tư thu hồi ngay ở lần thanh toán đầu tiên và các lần thanh toán tiếp theo
và thu hồi kết thúc khi thanh toán đạt 80% giá trị hợp đồng.
Trong quá trình thi công Ban Quản lý các dự án huyện THANH VINH
nhận thấy Công ty Cổ phần Hưng Thịnh chưa thực hiện đúng các nội dung trong
hồ sơ đề xuất chỉ định thầu và hợp đồng xây dựng số 25/2010/HĐ-XD ngày
19/7/2010. UBND huyện THANH VINH đã gửi cho Công ty Cổ phần Hưng
Thịnh nhiều văn bản về việc xác định khối lượng xây dựng đã thực hiện, nợ tạm
ứng và thanh quyết toán xây dựng công trình nhưng đến nay, Công ty vẫn chưa
giải quyết dứt điểm về số nợ tạm ứng 830.103.000đ để nộp trả ngân sách nhà
nước.
3.1.3 Nguyên nhân của việc quản lý kém hiệu quả nguồn vốn đầu tư
từ NSNN ở huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH.
3.1.3.1. Nguyên nhân từ góc độ cơ chế chính sách, pháp luật:
- Chế độ chính sách về xây dựng công trình cũng thay đổi nhiều, một số

vùng lãnh thổ.
- Các quy hoạch sau khi được duyệt chưa công bố rộng rãi để các tổ chức,
cá nhân được biết và thực hiện theo quy hoạch.
- Thực tế, việc bố trí vốn cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn
ngân sách Nhà nước vẫn còn tình trạng dàn trải; Lượng nợ đọng vốn xây dựng
cơ bản từ nguồn vốn ngân sách còn lớn, nhiều công trình hoàn thành nhưng
chưa có khả năng thanh toán và thiếu khả năng cân đối. Khả năng cân đối nguồn
vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đầu tư xây dựng còn rất hạn hẹp, trong


khi đó số lượng các dự án đầu tư do các đơn vị trình duyệt và đề xuất ngày càng
nhiều, trên thực tế số lượng dự án được duyệt đã không phù hợp với khả năng
cân đối. Nguyên nhân của tình trạng trên là:
- Chưa có những giải pháp cụ thể và có hiệu lực để thống nhất trong quản
lý nhằm kiểm soát và hạn chế được việc duyệt dự án đầu tư không cân đối với
khả năng nguồn vốn hiện có hoặc triển khai thực hiện vượt khả năng cân đối
vốn hàng năm. Vốn để lại đối ứng không đáp ứng được yêu cầu.
- Nhiều chủ đầu tư và các đơn vị chủ quản còn tư tưởng cho rằng nếu công
trình được duyệt sử dụng vốn ngân sách thì cứ triển khai xây dựng, không quan tâm
nhiều đến khả năng cân đối vốn trong kế hoạch hàng năm, nếu thi công vượt khối
lượng được giao sẽ chờ xin vốn Nhà nước để bổ sung thanh toán, làm mất cân đối
giữa mục tiêu đầu tư và khả năng cân đối vốn của kế hoạch năm sau.
- Nhiều công trình với lượng vốn bố trí quá ít nên với lượng vốn đó sẽ
không đủ để hoàn thành một hạng mục. Việc bố trí vốn cho xây lắp, thiết bị và
kiến thiết cơ bản khác trong một dự án còn chia đều theo tỷ lệ, trong khi chi trả
cho tư vấn cần phải thực hiện trước vì tư vấn đã hoàn thành hợp đồng, đủ điều
kiện thanh toán.
Nguyên nhân của tình trạng bố trí kế hoạch dàn trải là do chủ trương đầu tư:
- Cho lập dự án mới còn nhiều, trong khi khả năng bố trí vốn để đầu tư
xây dựng còn bị hạn chế. Hàng năm có kế hoạch chuẩn bị đầu tư, xong số dự án

chỉnh lại nhiều lần do chế độ chính sách, tăng thuế giá trị gia tăng, giá cả luôn
thay đổi lớn và thời gian thi công kéo dài. Khâu thiết kế hiện nay có điểm yếu là
tính chuyên nghiệp không cao, trình độ nhân viên thấp từ đó dẫn đến các giải
pháp kỹ thuật thiết kế không đúng, không hợp lý làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng của công trình, những giải pháp cho tổng công trình thiếu cụ thể,
thiết kế sơ sài, không sát với thực tế nên giá thành công trình nhiều khi không
kiểm soát được và rất cao.
- Việc lựa chọn năng lực các Nhà thầu tham gia đấu thầu còn hạn chế, nhiều
Nhà thầu năng lực kém không phù hợp với yêu cầu gói thầu mà vẫn được Chủ đầu
tư mời tham gia dự thầu, dẫn đến có Nhà thầu tham gia dự thầu nhiều các gói thầu
nhưng không trúng thầu. Chất lượng hồ sơ dự thầu của các nhà thầu không trúng
thầu rất thấp, mang tính chất hình thức, không bám sát hồ sơ mời thầu.
- Năng lực của nhà thầu không đáp ứng yêu cầu thi công.
- Năng lực của nhà thầu yếu về tài chính, thiết bị, phòng thí nghiệm hiện
trường. Doanh nghiệp bị thua lỗ và trong nhiều trường hợp là nguyên nhân trực
tiếp ảnh hưởng đển tiến độ, chất lượng thi công làm thất thoát và gây lãng phí
cho dự án đầu tư.
3.1.3.3. Nguyên nhân từ ban quản lý
- Năng lực của Ban quản lý còn hạn chế
- Ban quản lý thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu


kinh nghiệm, yếu cả về chuyên môn và khả năng quản lý XDCB thậm chí có
những chủ đầu tư phó thác cho bên nhà thầu và các cơ quan quản lý là chính,
dẫn đến chưa phát huy hết hiệu quả của công trình, gây lãng phí, thất thoát, tiến
độ chậm, chất lượng công trình còn chưa đảm bảo. Chủ đầu tư chưa quan tâm
đến việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy định, chưa bổ sung thủ tục
hồ sơ còn thiếu, lúng túng chậm trễ trong việc thanh toán khối lượng XDCB,
quyết toán công trình kể cả một số công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ
những năm trước. Việc thực hiện trình tự XDCB còn có những bất cập, một số


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status