Nghiên cứu đặc điểm môi trường lao động, sức khỏe bệnh nghề nghiệp và kết quả một số biện pháp can thiệp tại nhà máy đóng tàu hạ long ( Luận án tiến sĩ) - Pdf 48

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ QUỐC PHÕNG
HỌC VIỆN QUÂN Y

PHẠM TÙNG LÂM

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƢỜNG LAO ĐỘNG, SỨC KHỎE- BỆNH NGHỀ
NGHIỆP
VÀ KẾT QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
TẠI NHÀ MÁY ĐÓNG TÀU HẠ LONG

Chuyên ngành
Mã số

: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế
: 62 72 01 64

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI – 2013


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển không ngừng của ngành giao thông vận tải,
ngành đóng tàu biển Việt Nam đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm và ƣu
tiên hàng đầu, hàng chục con tàu trọng tải vài vạn tấn đã đƣợc đóng mới với
công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất. Với bờ biển dài trên 3.200km, nhiều sông
dài và chi phí nhân công thấp, nƣớc ta có một tiềm năng lớn để phát triển
ngành công nghiệp đóng tàu và Chính phủ Việt Nam cũng đã quyết định đƣa

dung môi, khói hàn, khói kim loại nặng và nhiều loại hóa chất khác. Phá dỡ
và sửa chữa có thể phải tiếp xúc với bụi amiăng hoặc bông thủy tinh [54],
[82], [86], [92], [100], [131].
Ngoài ra, công nhân còn phải tiếp xúc với tiếng ồn và rung chuyển, bức
xạ và nhiều tƣ thế lao động bất lợi. Chính vì vậy, việc đánh giá môi trƣờng,
điều kiện lao động và xác định ảnh hƣởng của các yếu tố bất lợi đến sức khỏe
của ngƣời lao động là vấn đề cần thiết.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, đề tài đƣợc tiến hành nhằm các
mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm một số yếu tố bất lợi trong môi trƣờng lao động
của công nhân đóng tàu vận tải biển tại nhà máy đóng tàu Hạ Long năm
2009.
2. Đánh giá thực trạng sức khoẻ và bệnh nghề nghiệp của công
nhân đóng tàu vận tải biển tại nhà máy đóng tàu Hạ Long.
3. Kết quả áp dụng và sự chấp nhận một số loại khẩu trang và nút
tai phòng chống bụi và tiếng ồn cho công nhân đóng tàu.


4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƢỜNG VÀ ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG CỦA
CÔNG NHÂN ĐÓNG TÀU
Nhà máy đóng tàu Hạ Long là thành viên của Tổng công ty công
nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (VINASHIN). Nhà máy do Chính phủ Ba Lan giúp
xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất từ năm 1976. Nhà máy đóng tại
phƣờng Giếng Đáy - Thành phố Hạ Long - Tỉnh Quảng Ninh.
Nhà máy có dây chuyền đóng mới tàu thuỷ hiện đại, thiết kế theo kiểu
đa tuyến khép kín từ khâu tiếp nhận vật tƣ, xử lý bề mặt tôn, gia công chi tiết,
lắp ráp các tổng đoạn trong nhà và đấu đà ngoài triền. Nhà máy có 25 nhà

điện đƣợc tiến hành lắp và hoàn thiện ở các khu vực khác nhau của tàu.
- Giai đoạn 9 (Thử đƣờng dài): tất cả chức năng của các hệ thống trên
tàu sẽ đƣợc kiểm nghiệm và hoạt động nhƣ khi hành trình thật.
- Giai đoạn 10 (Bàn giao): tàu đƣợc phép chính thức vận hành.
Để thực hiện đƣợc quy trình công nghệ trên, nhà máy đóng tàu bao
gồm các phân xƣởng sản xuất chính và các phân xƣờng sản xuất phụ trợ:
* Các phân xưởng sản xuất chính:
- Phân xƣởng Vỏ: làm công việc gia công tôn tấm, lắp ráp tổng đoạn và
đấu đà các tổng đoạn.
- Phân xƣởng Trang bị: lắp ráp các trang thiết bị trên boong tàu.
- Phân xƣởng Trang trí: làm sạch bề mặt, sơn toàn bộ tàu,
- Phân xƣởng Ống tầu: lắp đặt hệ thống ống


6

Thiết kế

Cắt thép

Bụi, hơi kim
loại, tiếng ồn

Bỏng nhiệt, bụi vào mắt và
đường hô hấp; tiếng ồn gây
điếc.

Lắp ráp

Bụi, hơi KL, ô

Hoàn thiện

Hơi KL, ô
nhiễm nhiệt

Sốc nhiệt, điện giật ,
ngã cao, nhiễm độc hơi

Hạ thủy

Trượt ngã

Thử đƣờng dài

Bàn giao
Sơ đồ 1.1. Dây chuyền công nghệ đóng tàu và các nguy cơ về AT-VSLĐ


7
* Các phân xưởng sản xuất phụ trợ:
- Ban Cơ điện: bảo dƣỡng toàn bộ thiết bị, chịu trách nhiệm về nguồn
điện sử dụng.
- Phân xƣởng Mộc tàu: trang trí nội thất cho tàu.
- Phân xƣởng Triền đà: thực hiện công việc đƣa tàu lên, xuống đà.
1.1.2. Nguy cơ sức khỏe nghề nghiệp trong môi trƣờng lao động của công
nhân đóng tàu
Trong một dây chuyền công nghệ đóng tàu có nhiều công đoạn khác
nhau, nên đặc điểm lao động của công nhân ở các công đoạn và phân xƣởng
cũng khác nhau.
- Công đoạn xử lý tôn: tôn đƣợc phun cát trực tiếp lên bề mặt để làm

1.1.2.1. Nguy cơ sức khỏe nghề nghiệp do các yếu tố vật lý
* Nhiệt độ cao:
Lê Vân Trình và cs. (2009) [33] khảo sát đánh giá hiện trạng MTLĐ và
môi trƣờng xung quanh tại một số doanh nghiệp đóng và sửa chữa tàu thủy ở
miền Bắc trong hai năm 2007 – 2009 thấy MTLĐ bị ô nhiễm nặng nề với
nhiều vị trí làm việc có các thông số môi trƣờng vƣợt tiêu chuẩn vệ sinh lao
động (TCVSLĐ). Làm việc trong hầm tàu vào mùa hè còn phải chịu ô nhiễm
nhiệt với nhiệt độ không khí rất cao (440C - 48,50C), tiềm ẩn nhiều rủi ro.
ngƣời lao động đồng thời phải tiếp xúc với bụi, hơi khí độc, tiếng ồn, nhiệt độ
cao và đây chính là nguyên nhân gây ra các trƣờng hợp bị sốc nhiệt, choáng
hơi sơn, khói hàn.
Năm 2005, Lƣơng Minh Tuấn (2005) [42], nghiên cứu MTLĐ của công
nhân Công ty đóng tàu Hồng Hà thấy nhiệt độ tại phân xƣởng oxy- trang trí
và Vỏ tàu trung bình là 32,0oC. Hoàng Thị Hiếu (2007) [14] nghiên cứu
MTLĐ tại tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Bạch Đằng và Nam Triệu thấy
nhiệt độ trung bình tại buồng phun hạt mài là 40,5 ± 0,5oC.


9
* Tiếng ồn:
Tiếng ốn là một trong những yếu tố nguy cơ nghề nghiệp ở công nhân
đóng tàu, đặc biệt là ở những ngƣời liên quan đến việc sửa chữa. Nguồn tiếng
ồn từ các máy cắt gỗ (có thể lên tới 120dB) [50] hoặc từ các máy mài, cắt, hàn
và dập kim loại... Các nghiên cứu về MTLĐ ở nhà máy đóng tàu cho thấy
tiếng ồn cao nhất là 135dB khi cắt kim loại, 111dB khi mài, 117dB khi bào;
trong 8 giờ lao động, công nhân nồi hơi và thợ lắp ống tàu phải thƣờng xuyên
tiếp xúc với tiếng ồn 93dBA và 94 dBA.
Tiếng ồn là nguy cơ dẫn đến điếc nghề nghiệp (ĐNN), tăng huyết áp và
các rối loạn chức năng khác ở ngƣời lao động [6], [7], [32], [139], [141],
[147]. Mặt khác, các yếu tố bất lợi trong MTLĐ đã kết hợp làm tăng nguy cơ

đƣơng lớn hơn TCVSLĐ, mà thời gian tiếp xúc trong một ngày cũng nhƣ số
ngày làm việc trong tuần cũng vƣợt quá mức quy định.
* Rung:
Các nghiên cứu ở công nhân đóng tàu thấy do sử dụng các thiết bị gây
rung (máy xay, máy mài, máy tiện) cho nên nhiều công nhân có nguy cơ rối
loạn cơ xƣơng ở bàn tay và chi trên [55], [57], [79], [94], [129].
Park H. và cs. (2007) [109] nghiên cứu 114 công nhân sử dụng các
công cụ có tần số rung ở mức 6,32 và 13,39 m/s2 trong 4,64 giờ mỗi ngày
thấy một nửa số công nhân có triệu chứng khởi phát của bệnh Raynaud.
Tình trạng rối loạn cơ xƣơng nghề nghiệp (cấp tính hoặc mạn tính)
cũng là nguyên nhân dẫn đến nghỉ việc và bệnh nghề nghiệp (BNN) ở công
nhân đóng tàu. Ảnh hƣởng của công cụ gây rung đến chức năng bàn tay đã
đƣợc chứng minh bởi sự giảm tốc độ dẫn truyền thần kinh ở cổ tay, bàn tay và
các ngón tay trong một bộ phận công nhân đóng tàu ở Mỹ [56]. Nghiên cứu
của Cherniack M. và cs. (2008) [58] cũng cho thấy có tƣơng quan thuận giữa
tỷ lệ rối loạn vận mạch ở bàn tay với cƣờng độ và thời gian tiếp xúc với các
công cụ gây rung ở 214 đối tƣợng. Herberts P. và cs. (1981) [73] thấy rằng
tình trạng rối loạn cơ xƣơng vùng vai chiếm tới 18% ở công nhân trong một
xƣởng đóng tàu và cũng có nhiều ngƣời rối loạn cơ xƣơng ở khuỷu tay.
* Bụi silic:
Bụi silic là nguyên nhân dẫn đến các bệnh tai mũi họng, bệnh hô hấp và
đặc biệt là bệnh bụi phổi silic (BBPSi) nghề nghiệp [1], [61], [62], [71],
[118]. Trong hai năm 2007 - 2009, Viện Nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Bảo
hộ lao động đánh giá hiện trạng MTLĐ một số doanh nghiệp đóng và sửa
chữa tàu thủy thấy MTLĐ bị ô nhiễm nặng nề. Tại khu vực phun cát, nồng độ
bụi chứa silic tự do vƣợt TCVSLĐ hàng chục đến hàng trăm lần [22].


11
Hoàng Thị Hiếu (2007), [14] khảo sát MTLĐ tại tổng công ty Công

[81], [91], [98] [108], [115], [142], [155].
Các công việc tiếp xúc nhiều với amiang là cắt và lắp đặt các vật liệu
cách nhiệt. Murbach D. M. và cs. (2008) [105] thống kê 52 nghiên cứu ở 84
tàu từ năm 1978 đến 1992 thấy nồng độ amiang trong không khí từ 0,004 đến
0,008 sợi/cm3 ở phòng nghỉ; cao nhất là ở phòng động cơ (0,01 sợi/cm3 không
khí). Điều này chứng tỏ MTLĐ của công nhân đóng tàu có ô nhiễm amiang,
nhƣng vẫn trong giới hạn cho phép. Nhìn chung, các nghiên cứu đều cho thấy,
trƣớc những năm 1980, công nhân đóng tàu bị phơi nhiễm amiang mức độ
nặng.
Welch S. L. và cs. (2007) [143] nghiên cứu trên 18.211 công nhân
luyện kim Bắc Mỹ thấy công nhân đóng tàu có các bệnh liên quan đến amiang
tăng cao gấp 1,8 lần. Điều này đã đƣợc khẳng định qua một nghiên cứu dài từ
năm 1966 đến 1975 ở 253 công nhân đóng tàu ở Anh: 17 trƣờng hợp tử vong
do các bệnh ác tính liên quan đến amiang và 21% trƣờng hợp dày dính màng
phổi trên X quang lồng ngực [119]. Ở Pháp, từ năm 1999 đến 2005 đã có
1.879 công nhân đóng tàu mắc các bệnh amiang nghề nghiệp, chụp phim CT
lồng ngực định kỳ cho 22% số công nhân thấy có trên một nửa là mắc bệnh
(dày hoặc dính màng phổi). Bệnh amiang nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở nhóm
công nhân nồi hơi (27%), thợ đƣờng ống và thợ hàn.
Krstev S. và cs. (2007) [90] nghiên cứu tình hình tử vong của 4.702
công nhân (4.413 nam và 289 nữ) ở nhà máy đóng tàu của Cảnh sát biển (Mỹ)
từ tháng 1/1950 đến 31/12/1964 và đƣợc theo dõi đến 31/12/2001 thấy tỷ lệ tử
vong chuẩn cho tất các nguyên nhân là 1,08 (CI 95%: 1,04- 1,12); ung thƣ
đƣờng hô hấp (tỷ lệ tử vong chuẩn: 1,29; CI 95%: 1,15-1,43), ung thƣ phổi (tỷ
lệ tử vong chuẩn: 1,26; CI 95%: 1,12-1,41), ung thƣ trung biểu mô (tỷ lệ tử
vong chuẩn: 5,07; CI 95%: 1,85-11,03) và khí phế thũng (tỷ lệ tử vong chuẩn:
1,44; CI 95%: 1,01-1,99); thấp hơn là bệnh tim mạch (tỷ lệ tử vong chuẩn:


13

14
ung thƣ là 135 ngƣời ở nhân viên văn phòng và 519 ngƣời ở công nhân đóng
tàu. Tỷ lệ ung thƣ hiệu chỉnh theo tuổi ở nhân viên văn phòng và công nhân
đóng tàu là 136,2 và 179,7/100.000 ngƣời/năm. Hệ số tỷ lệ chuẩn cho ung thƣ
dạ dày, ung thƣ gan, ung thƣ phổi ở công nhân đóng tàu so với các nhân viên
văn phòng là 1,67 (CI 95%: 1,12-2,49), 2,13 (CI 95%: 1,37-3,36), và 3,71 (CI
95%: 1,68- 8,19). Nhƣ vậy, nguy cơ gia tăng ung thƣ dạ dày, ung thƣ gan và
ung thƣ phổi ở công nhân đóng tàu có thể do một số yếu tố nghề nghiệp trong
nhà máy đóng tàu gây nên.
1.1.2.2. Nguy cơ sức khỏe nghề nghiệp do các yếu tố hóa học
Công nhân đóng tàu còn bị phơi nhiễm với các hydrocarbon ở nhiều
dạng khác nhau [19], [82], [86], [92], [100], [124]. Hydrocacbon thơm đƣợc
tìm thấy trong các dung môi có chứa toluen và xylen (43% ngƣời lao động
tiếp xúc) đƣợc sử dụng rộng rãi khi sơn tàu và styren đƣợc sử dụng trong
đóng tàu [50], [96], [127]. Đây là những chất gây ức chế hệ thần kinh trung
ƣơng và có nguy cơ gây các tổn thƣơng ở hệ thần kinh. Các chất này gây kích
ứng da và hệ thống hô hấp, với số lƣợng lớn có nguy cơ gây phù phổi, chán
ăn và ảnh hƣởng đến chức năng tiêu hóa. Toluen còn là chất gây ung thƣ, gây
quái thai và viêm cầu thận [102]. Các hóa chất khác cũng có nguy cơ gây ung
thƣ nhƣ benzen gây bạch cầu, trichloroethylen gây ung thƣ thận cũng đã từng
đƣợc sử dụng trong ngành đóng tàu trƣớc khi bị cấm [111], [124]. Phơi nhiễm
nghề nghiệp có thể xảy ra trực tiếp (sử dụng sản phẩm) hoặc gián tiếp, thông
qua các vận chuyển sản phẩm (xăng dầu). Điều này cũng đúng với các sản
phẩm dầu, bằng chứng là sự gia tăng của ung thƣ phổi và ung thƣ da đƣợc tìm
thấy ở những ngƣời làm việc trên tàu chở dầu [101].
Styren có ảnh hƣởng đến hệ thống máu đƣợc sử dụng trong các polyme
hoá các loại nhựa polyester và chiếm 40% trọng lƣợng của các loại nhựa này
[50].




16
Links I. và cs. (2007) [95] nghiên cứu sự phơi nhiễm hô hấp ở công
nhân sơn tàu thấy phơi nhiễm đồng là 3mg/m3 khi phun sơn, 0,8 mg/m3 khi
mài cát, nồng độ Dichlofluanide là 0,14 ppm; xylen và ethylbenzen là 52,6
ppm và 33,2 ppm.
Những hóa chất độc xâm nhập vào cơ thể thông qua hệ thống hô hấp và
da. Chang F. K. và cs. (2007) [52] thấy rằng khi đeo mặt nạ, nồng độ xylen
and ethylbenzin mà thợ sơn bị phơi nhiễm đã giảm 96% và 94%. Một nghiên
cứu khác của Chang F. K. và cs. (2007) [51] cũng cho thấy tỷ lệ xylen hấp thụ
qua da ở thợ sơn tàu là khoảng 63%.
Xin J. và cs. (2011) [149] nghiên cứu nồng độ chất Dichlorodiphenyltrichloroethan thƣờng có trong sơn chống gỉ ở các nhà máy đóng tàu của
Trung Quốc thấy dao động từ 0,06- 8.387,24 mg/kg. So với các nhà máy sản
xuất sơn, các nhà máy đóng tàu bị ô nhiễm nặng hơn, làm ảnh hƣởng đến sinh
thái, cƣ dân cũng nhƣ ngƣời lao động.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, công nghệ sửa chữa và đóng tàu
thủy có thể làm phát sinh các khói hàn, hơi khí độc khác [42], [137].
Lƣơng Minh Tuấn (2005) [42] khảo sát các loại hơi khí độc phát sinh
trong tại các phân xƣởng của Công ty đóng tàu Hồng Hà là khí CO, CO2,
aceton, hơi chì và SO2 thấy các mẫu đo đều thấp hơn TCVSLĐ. Tuy vậy, nếu
tiếp xúc thƣờng xuyên, liên tục và lâu dài với các chất khí này vẫn có thể ảnh
hƣởng đến sức khỏe của ngƣời lao động.
Như vậy, công nhân đóng tàu phải lao động trong môi trường có nhiều
yếu tố bất lợi: nhiệt độ và độ ẩm cao, tiếng ồn, bụi silic và các hơi khí độc
như CO, CO2, SO2... Sự tác động phối hợp của các yếu tố nguy hại kết hợp
với lao động nặng nhọc, nhịp độ lao động khẩn trương đã gây nên những ảnh
hưởng bất lợi cho sức khỏe và là nguy cơ gây ra những BNN và liên quan
đến nghề nghiệp cho người lao động như ĐNN, BBPSi nghề nghiệp…



18
Nguyễn Bích Diệp và cs. (2008) [10] nghiên cứu ở một nhà máy đóng
tàu thấy hầu hết công nhân làm việc ngoài trời (86,7%) và thƣờng xuyên vận
chuyển nguyên vật liệu nặng bằng tay (78,3%). Thời gian làm việc của công
nhân 8 giờ/ngày và cả 7 ngày/tuần. Tƣ thế làm việc của công nhân chủ yếu là
tƣ thế đứng và ngồi xổm trên mặt đất chiếm 84,7- 90% và các tƣ thế bất hợp
lý khác là cúi (46%) và vặn (26%).
1.2.2. Bệnh da nghề nghiệp
Do tiếp xúc với hoá chất cũng nhƣ các yếu tố vật lý nhƣ tia cực tím, tia
bức xạ, nhiệt độ nóng lạnh và những yếu tố cơ học nên công nhân đóng tàu dễ
bị các tổn thƣơng da cấp tính hoặc mạn tính [15], [113].
Peltonen L. và cs. (1983) [113] nghiên cứu trên 2.057 công nhân đóng
tàu thấy 16% bị tổn thƣơng da. Lê Thực (1999) [28] nghiên cứu bệnh ngoài
da của cán bộ, nhân viên ngành đƣờng thuỷ nội địa cho thấy tỷ lệ mắc bệnh
ngoài da là 21,0%. Trong đó nấm da 28,2%, bệnh da dị ứng 16,6%, sạm da
15,7%, viêm da tiếp xúc 14,9%, bệnh da nhiễm khuẩn 11,2% và các bệnh da
khác 13,2%.
Hoàng Thị Hiếu (2007) [15] nghiên cứu cơ cấu bệnh ngoài da ở công
nhân Nhà máy đóng tàu Hạ Long trong hai năm 2005- 2006 thấy tỷ lệ mắc
bệnh ngoài da của nhóm nghiên cứu là 27,8%, trong đó nhóm sản xuất trực
tiếp có tỷ lệ mắc là 29,2%; nhóm sản xuất gián tiếp là 18,9%; nhóm trực tiếp
có nguy cơ mắc bệnh ngoài da cao gấp 1,8 lần so với nhóm gián tiếp
(p
20
Kośmider K. và cs. (1997) [88] theo dõi trong 5 năm (1989-1993) ở
Nhà máy đóng tàu Szczecin thấy có 1.317 tai nạn liên quan đến nghề nghiệp
của nam công nhân đóng tàu. Tỷ lệ tai nạn cao nhất là ở các nhóm nghề nhƣ
thợ hàn, ống tàu, cơ khí điện và máy tàu. Các yếu tố liên quan đến tình hình
tai nạn lao động là tuổi, thâm niên nghề nghiệp và loại hình lao động.
Ở Việt Nam, Nguyễn Bích Diệp và cs. (2008) [10] nghiên cứu ATVSLĐ tại một doanh nghiệp cơ khí đóng tàu cho thấy các tai nạn xảy ra với
các công nhân có tuổi nghề từ 1- 5 năm (chiếm 62,2%), ở các công nhân nam
(chiếm 96,2%) và chủ yếu ở lứa tuổi 18- 30 tuổi (66%).
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Bích Diệp và cs. (2008) [11] ở công
nhân đóng tàu cho thấy tai nạn lao động chủ yếu xảy ra ở các công nhân mới
vào nghề. Thời gian xảy ra nhiều tai nạn là mùa hè từ tháng 6 đến tháng 9
(10,3- 13,8%) và các tháng cuối năm khi phải làm nhiều việc để hoàn thành
kế hoạch nhƣ tháng 11 (16,6%). Gánh nặng bệnh tật do bị tai nạn thƣơng tích
của công nhân cơ khí là 2,8 DALY/100 ngƣời. Chấn thƣơng phần mềm làm
mất số năm sống khoẻ mạnh do tai nạn thƣơng tích cao nhất 1,535 DALY
(34,4%). Nam giới có tổng số DALY bị mất đi cao hơn so với nữ (3,743
DALY: 92,6% ở nam so với 0,297 DALY ở nữ chiếm 7,4%). Số DALY bị
mất đi nhiều nhất là ở lứa tuổi từ 21- 30 tuổi.
1.2.4. Bệnh điếc nghề nghiệp
Điếc nghề nghiệp là vi chấn thƣơng âm do tiếp xúc với tiếng ồn nơi lao
động có cƣờng độ lớn (≥90 dB) thƣờng xuyên hàng ngày (6- 8 giờ/ngày),
trong thời gian dài (≥3 tháng) gây nên các tổn thƣơng không hồi phục, đối
xứng cả hai tai của cơ quan tiếp âm [12], [18], [24].
Trong quá trình phát triển công nghiệp số ngƣời lao động trong môi
trƣờng có tiếng ồn ở mức gây hại ngày một tăng [87]. Tỷ lệ ngƣời chịu tác
động của tiếng ồn gây hại ở các nƣớc công nghiệp phát triển khoảng 25% đến
30% trong tổng số những ngƣời lao động, do vậy số ngƣời bị ĐNN ngày càng




22
trƣờng hợp bị xốp xơ tai, cứng khớp bàn đạp trong hệ thống dẫn truyền âm
của tai [60], [67], [99], [126], [133]. Ngƣời lao động trong môi trƣờng luyện
cán thép, các máy nghiền quay, máy mài, máy cắt và rèn búa máy... đều có
thể bị tác động gây hại của tiếng ồn [103], [112].
Để dẫn đến ĐNN, thời gian tiếp xúc với tiếng ồn gây hại phải trên 3
tháng, thời gian tiếp xúc càng lâu thì tỷ lệ ĐNN càng tăng. Thời gian tiếp xúc
tiếng ồn trong ngày cũng rất quan trọng, với tiếng ồn 85- 90dB thì thời gian
tiếp xúc trong ngày là 6- 8 giờ. Nếu cƣờng độ cao hơn thì thời gian tiếp xúc ít
hơn cũng gây hại [64], [69], [114], [135].
Tiếng ồn phối hợp với rung xóc sẽ làm tăng nguy cơ ĐNN khi rung xóc
truyền tiếng ồn theo đƣờng xƣơng đến tai trong [76].
Nasir H. M. và cs. (2012) [106] nghiên cứu ở 358 công nhân làm việc
tại các sân bay của Malaysia từ tháng 11/2008 đến 3/2009 thấy tỷ lệ thiếu hụt
thính lực là 33,5%. Các yếu tố làm tăng nguy cơ thiếu hụt ở ngƣời lao động là
>40 tuổi (OR: 4,3; CI 95%: 2,2-8,3), thời gian tiếp xúc tiếng ồn >5 năm (OR:
2,5; CI 95%: 1,4-4,7), hút thuốc lá (OR: 2,1; CI 95%: 1,2- 3,4), thời gian
phục vụ >5 năm (OR: 2,1; CI 95%: 1,1- 3,9), tiếp xúc với tiếng ồn (OR: 6,1;
CI 95%: 1,3- 29,8), tiếp xúc với rung xóc (OR: 2,2; CI 95%: 1,1- 4,3) và làm
việc trong đơn vị kỹ thuật (OR: 5,9: CI 95%: 1,1- 30,9). Tỷ lệ thiếu hụt thính
lực ở ngƣời không hút thuốc ≤40 tuổi; hút thuốc ≤40 tuổi, không hút thuốc
>40 tuổi và hút thuốc >40 tuổi tƣơng ứng là 1,0; 1,7; 2,8 và 4,6.
Ngƣời ta đề cập đến hai vấn đề chính về cơ chế bệnh sinh của bệnh
ĐNN: thần kinh và cơ học. Cơ chế thần kinh đã đƣợc nghiên cứu từ cuối thế
kỷ XI. Năm 1880, Habermann quan sát thấy tiếng ồn gây nên những thƣơng
tổn ở bộ phận thần kinh của cơ quan thính giác, ngày nay ngƣời ta quan sát
thấy ở những ngƣời tiếp xúc với tiếng ồn, ngƣỡng đáp ứng của thần kinh
thính giác tăng, dẫn đến mất khả năng nhậy cảm thông thƣờng, dần dần không
cảm ứng đƣợc với âm tần có cƣờng độ thấp [12].

rèn, thợ hàn và phun sơn. Các nhóm nghề khác nhau có tỷ lệ mắc BNN khác


24
nhau: thợ hàn thƣờng bị BBPSi (45,9%), thợ rèn mắc ĐNN (78,5%) và thợ
phun sơn mắc bệnh da nghề nghiệp (44,6%). Tỷ lệ BNN ở nhóm công nhân
trên 40 tuổi cao gấp 6,5 lần so với nhóm công nhân trẻ tuổi.
Wu T. N. và cs. [148] kiểm tra 9.535 công nhân tiếp xúc với tiếng ồn
cao >85 dBA thấy có 3.216 ngƣời (34%) giảm sức nghe do tiếng ồn với
ngƣỡng nghe cao hơn 40 dBA ở một hoặc cả hai tai. Trong số này những
nghề có tỷ lệ giảm sức nghe cao là xây dựng (38,6%), đóng và sửa chữa tàu
(19,2%), công nghiệp sản xuất vũ khí (13,6%).
Ở Việt Nam, trong ngành công nghiệp đóng tàu, tỷ lệ ĐNN cũng khá
cao. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Toán (1994) [31] cho thấy tiếng ồn khi gõ gỉ
trên boong của xí nghiệp Canô xà lan Hà Nam Ninh là 109 dBA, trong hầm
tàu là 114dBA và tỷ lệ ĐNN của công nhân gõ gỉ là 11,6%.
Nghiên cứu của Phan Tuấn (1995) [41] cho thấy tỷ lệ ĐNN trong
ngành đóng tàu tại Hải Phòng là 9,64%, trong đó ĐNN loại nhẹ là 35,43%;
loại vừa là 29,13% và loại nặng là 18,11%.
Lƣơng Minh Tuấn (2005) [42], nghiên cứu trên 161 đối tƣợng tiếp xúc
với tiếng ồn nguy hại ở Công ty đóng tàu Hồng Hà thấy bệnh ĐNN chiếm tỷ
lệ 9,9%. Tuổi nghề càng cao tỷ lệ công nhân bị ĐNN càng tăng: tăng từ 4,8%
ở nhóm có tuổi nghề ≤10 năm lên 8,3% ở nhóm có tuổi nghề 11- 15 năm và
14,1% ở nhóm có tuổi nghề >15 năm. Mối tƣơng quan giữa tuổi nghề và tỷ lệ
bệnh ĐNN là mối tƣơng quan thuận với r= 0,58 (p
đƣợc xem là ít có khả năng gây xơ hóa phổi. Nhiệt độ cao có thể làm thay đổi
cấu trúc dạng tinh thể của silic. Nguồn gốc đầu tiên của silic là quartz. Quartz
là một khoáng chất đƣợc tìm thấy ở hầu hết các khoáng chất trầm tích và nó là



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status