skkn kinh nghiệm rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ ở trường mầm non thị trấn rừng thông, huyện đông sơn, tỉnh thanh hóa - Pdf 49

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN CHO TRẺ 24-36
THÁNG TUỔI, NHẦM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN RỪNG THÔNG,
HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA

Người thực hiện: Phan Thị Mơ
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non thị trấn
Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

1


THANH HÓA NĂM 2018

MỤC LỤC
TT
1.
1.1.

NỘI DUNG
MỤC LỤC

Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ để có biện pháp giáo dục phù hợp
Biện pháp 3: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ thông
qua hoạt động chơi tập và mọi lúc mọi nơi
Biện pháp 4: Lấy một số gương tốt kịp thời để
giáo dục trẻ
Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ
huynh
Kết quả đạt được
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiển nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

3
3
3
4
5
5
5
6

1.4.
2.
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.

là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con
người có ích, những con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Đảng ta là
giáo dục mầm non phải làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời
thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, con người
biết lao động làm chủ tập thể, đó chính là yếu tố phát triển toàn diện nhân cách
trẻ mầm non {2}. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí
thức có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo
nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo.
Những phẩm chất ấy của con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non,
lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Xuất phát từ mục tiêu trên Đảng và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
29-NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu cụ thể với giáo dục
mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành
các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1{1}.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang có nhiều sửa đổi về
chương trình giáo dục, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động
phù hợp với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một
cách chủ động tích cực. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả
năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục
trẻ một cách linh hoạt.
Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì những người làm công tác giáo
dục, đặc biệt là cô giáo mầm non người trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ phải
biết đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, để
khuyến khích trẻ tham gia hoạt động một cách tích cực và có hiệu quả nhất. Để
đạt được kết quả giáo dục đó chúng ta phải kể đến gia đình, gia đình chính là nơi
nuôi dưỡng chăm sóc, cha mẹ là những người thầy giáo đầu tiên và quan trọng
nhất của đứa trẻ. Cô giáo mầm non là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Vậy chúng
ta cần phải làm gì? Làm như thế nào? Làm ra sao? Để hình thành cho trẻ có

tốc độ nhanh, cơ thể trẻ còn yếu ớt, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan
trong cơ thể chưa hoàn thiện. Sự phát triển tâm lý và sinh lý có mối quan hệ mật
thiết và thống nhất chặt chẽ. Trong khi đó nhu cầu cảm giác vận động, nhu cầu
giao tiếp với người lớn, nhu cầu xúc cảm, tình cảm và nhu cầu tiếp xúc với đồ
vật của trẻ rất mạnh. Như vậy người lớn có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ sự
phát triển tâm sinh lý của trẻ em (sự phát triển của trẻ em phụ thuộc rất nhiều
vào người lớn){4}.
Chính vì vậy cô giáo mầm non phải hiểu hoàn cảnh sống của trẻ, nắm
được đặc điểm về thể chất, tâm lý của trẻ cũng như thói quen, hành vi đạo đức
mà trẻ đã có... Từ đó lựa chọn những biện pháp tác động sư phạm phù hợp,
nhằm giúp trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm thẩm mĩ và thích ứng với cuộc
sống, với môi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non {3}.
Hoạt động của trẻ ở trường mầm non được phát triển phức tạp dần. Trẻ 24
- 36 tháng tuổi hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo. Các dạng hoạt động
khác mới nảy sinh như vẽ, nặn..., lao động tự phục vụ bản thân, trò chơi thao tác
vai...Trong giai đoạn này ngôn ngữ của trẻ đang phát triển mạnh mẽ, khă năng
tự ý thức được hình thành. Vai trò của cô giáo trong việc rèn luyện nề nếp, thói
quen cho trẻ là vô cùng quan trọng. Bởi vì lần đầu tiên đến lớp trẻ rất bỡ ngỡ và
luôn cảm thấy xa lạ. Đặc biệt trẻ thấy lo lắng xen lẫn chút sợ hãi, luôn có cảm
giác cô giáo và bạn bè không quan tâm tới mình. Thời gian trẻ ở trường khoảng
8 – 10 giờ/ngày đây là khoảng thời gian diễn ra nhiều hoạt động nhất. Vì vậy cô
giáo phải tập cho trẻ thích nghi dần với nề nếp trong môi trường mới, không nên
bắt trẻ theo ngay tất cả chế độ sinh hoạt hàng ngày, đôi khi phải chiều theo ý của
trẻ.
Hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non là hoạt động có mục đích, có
kế hoạch. Cô giáo có vai trò vô cùng quan trọng trong giáo dục trẻ, phương pháp
giáo dục của cô giáo mầm non phải phù hợp với nhu cầu phát triển, nhận thức,
hứng thú của trẻ, tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, hứng thú và an toàn. Vì thế
nghệ thuật của cô giáo mầm non là biết hoà nhập vào thế giới của trẻ, biết quên
mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ, cô giáo phải biết tôn trọng và

Đa số phụ huynh là cán bộ công chức, viên chức nên nhiệt tình với lớp,
quan tâm đến trẻ và luôn luôn đưa trẻ đi học đều, đúng giờ, cũng như tham gia
đầy đủ các hoạt động, các khoản ủng hộ cho nhà trường và lớp đầy đủ.
Bản thân được tham gia đầy đủ các lớp chuyên đề do phòng giáo dục tổ
chức, nhiệt tình, yêu nghề và có nhiều năm liên tục phụ trách nhóm trẻ, nên cũng
có một số kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, cũng như việc hình
thành nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ tạo được niềm tin với nhà trường và phụ
huynh.
2.2.2. Khó khăn:
Diện tích phòng học rất chật hẹp do đó hoạt động chăm sóc và giáo dục
trẻ rất khó khăn và vất vả.
Đa số trẻ trong lớp chưa đi học nhà trẻ nên rất khó khăn trong việc rèn nề
nếp thói quen cho trẻ.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ nhút nhát, rụt dè, khả
năng ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, nói chưa rõ lời, trẻ còn nói ngọng, nói lắp
nhiều, hiểu nghĩa câu từ hạn chế. Bước đầu xa môi trường gia đình đến với môi
trường lớp học hoàn toàn xa lạ đối với trẻ do đó việc rèn nề nếp, thói quen cho
trẻ rất khó khăn
Do đặc thù của trẻ nhà trẻ sức khỏe yếu, sự thích nghi với thời tiết môi
trường bên ngoài còn kém, nên trẻ đi học không đều và không thường xuyên
nhất là thời điểm mưa gió, giá rét, vì vậy ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ chuyên cần
và nề nếp của trẻ.
Một số phụ huynh còn có suy nghĩ trẻ con còn nhỏ cần được cưng chiều,
nên việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ gặp không ít khó khăn.
2.2.3. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học.
Từ thuận lợi và khó khăn trên, bản thân tôi hiểu được vai trò và tầm quan
trọng của việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Bước vào đầu năm học tôi tiến hành
khảo sát với kết quả như sau:
6


11

44

3

Nề nếp lao động phục vụ

25

14

56

11

44

4
5

Nề nếp vệ sinh
Nề nếp giờ ăn, ngủ

25
25

16
15


thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn.
2.3. Các biện pháp thực hiện
2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục, giáo dục bằng tình
cảm yêu thương của cô giáo.
a. Xây dựng môi trường giáo dục.
Xây dựng môi trường giáo dục trẻ nhà trẻ có nhiệm vụ hết sức quan trọng
có ý nghĩa đối với sự phát triển của trẻ. Môi trường giáo dục tạo cho trẻ cảm
thấy thích thú, vui tươi ấm áp và an toàn đối với trẻ. Môi trường giáo dục là
những hình ảnh, những đồ chơi mới lạ, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ vào hoạt động
một cách tích cực hơn. Môi trường đó phải đảm bảo an toàn về thể chất, tâm lý
cho trẻ vừa có tác dụng giáo dục, vừa có tính thẩm mỹ và phải được xây dựng
xuyên suốt trong quá trình học. Vì vậy tôi xác định trong lớp học không thể
thiếu những góc chơi của bé, để lớp học thêm lôi cuốn trẻ tôi phải tạo nên một
môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, những nhân vật ngộ nghĩnh,
những người bạn thân yêu... Trường lớp có đẹp, đồ chơi nhiều, cô tổ chức nhiều
trò chơi thú vị, nhiều hoạt động hấp dấn thì trẻ sẽ chăm chỉ, hứng thú đến
trường, lớp.
Lâu nay ở lớp tôi thường trang trí với các mảng, các loại dạ màu, xốp màu
với màu sắc rất sặc sỡ, đôi khi làm lóa mắt của trẻ, hình ảnh còn mang tính áp
đặt, bố trí góc chơi chưa phù hợp, khai thác hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì
vậy tôi đã dùng những lá cây, vỏ cây khô, vỏ ngao, vỏ lạc, hoa thông, rơm dạ,
mùn cưa... để trang trí làm giảm màu sắc trang trí, làm cho hình ảnh trang trí hài
hòa hấp dẫn hơn. Các góc chơi được bố trí phù hợp với động và tĩnh, hình ảnh
trang trí phù hợp với trẻ và mang tính giáo dục cao.
Ví dụ 1: Tiêu đề các khu vực chơi là những hình ảnh con vật gần gũi, ngộ
nghĩnh đáng yêu, góc điểm danh trẻ “Đến lớp thật là vui” có hình ảnh của trẻ để
7


khi trẻ đến lớp trẻ gắn vào góc. Khu vực hoạt động với đồ vật với tiêu đề “Bé

toàn khi ở bên cô? Bằng tình yêu thương tôi gần gũi, ân cần, trìu mến trò
chuyện, vui chơi cùng trẻ chỉ vào những bức tranh, những hình ảnh để trò
chuyện với trẻ, giúp trẻ nhanh chóng quên đi nỗi sợ hãi, nỗi nhớ người thân và
cảm thấy yên tâm khi ở bên cô. Khi trẻ có tình cảm với cô, hứng thú chơi tôi sử
dụng nghệ thuật của mình để thu hút lôi cuốn trẻ vào các hoạt động một cách dễ
dàng hơn.
Ví dụ 1: Ngày đầu tiên đến lớp trẻ thường khóc lóc nên tôi phải bế trẻ lên
và âu yếm, hỏi han trẻ, tạo tình huống bất ngờ như chỉ vào hình ảnh, đồ chơi nói:
Con chim đang bay kìa! Chim bay ở đâu? Ôi em búp bê này ngoan quá! Búp bê
có áo đẹp giống Quỳnh Anh không? Hoặc tôi chỉ vào tranh con vật hỏi trẻ con gì
đây? Con trâu có gì nào? ( bằng các câu hỏi tôi cho trẻ chỉ vào hình ảnh, con vật
để trẻ trả lời câu hỏi và nói cùng cô.
Ví dụ 2: Tôi bế trẻ vào góc chơi, xem tranh ảnh, đồ chơi và trò chuyện với
trẻ: Cho trẻ xem tranh, kể chuyện theo tranh: Tranh vẽ ai đây? Còn ai đây nữa?
Nào cô cháu mình cùng chơi bế em, nấu cho em ăn nhé. Hoặc cô đố con đây là
cái gì (xe ô tô) cô cháu mình cùng chở hàng bằng chiếc xe này nào....
Từ những câu hỏi tôi lôi cuốn trẻ xem tranh ảnh, đồ dùng, đồ chơi, tạo
tình huống bất ngờ, mới lạ, với lời dẫn nhẹ nhàng tình cảm tôi giúp trẻ cảm nhận
được tình yêu thương, nguồn hạnh phúc, sự an toàn khi ở bên cô, được cô giáo
yêu thương như người thân sẽ giúp trẻ dần dần quen cô và quên đi nỗi nhớ nhà.
Từ đó trẻ sẽ hứng thú tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn một cách hiệu
quả. Phụ huynh cảm thấy yên tâm khi gửi con đến trường. Bản thân tôi cũng
thấy được niềm vui khi được phụ huynh tin tưởng, trẻ ngày một ngoan hơn,
thích thú hơn khi đến trường với cô giáo và các bạn bè, tình cảm thân mật giữa
tôi và trẻ ngày càng gắn bó và gần gũi hơn.
2.3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện
pháp giáo dục phù hợp.
Bên cạnh việc chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ trọng tâm, tôi tìm hiểu
đặc điểm tâm lý của từng trẻ qua hoạt động hàng ngày, xem trẻ thường có sở
thích gì? Đặc điểm riêng của trẻ như thế nào? Thông qua phụ huynh để biết

sự gò bó, áp đặt.
Như vậy nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của từng trẻ để có biện pháp
chăm sóc, giáo dục, rèn luyện phù hợp, giúp trẻ có nề nếp và thích nghi với
trường lớp mầm non. Khi thực hiện biện pháp này tôi phải mất vài tuần đầu giáo
dục rèn luyện cho trẻ, những tuần sau đó tôi theo dõi, nhắc nhở giáo dục kịp thời
khi cần thiết. Đến nay trẻ có nề nếp hơn không chọc ghẹo nhau, nghe lời cô, học
ngoan có nề nếp hơn, các cháu không còn khóc và không còn ngồi ngả nghiêng
nữa.
2.3.3. Biện pháp 3: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ thông qua hoạt
động chơi tập và mọi lúc, mọi nơi.
a. Thông qua hoạt động chơi tậ.p
Trẻ mầm non thường là nhanh nhớ, chóng quên. Chính vì vậy nếu như thói
quen hàng ngày của trẻ mà không được thường xuyên rèn luyện nhắc nhở thì
hiệu quả sẽ không cao. Trong khi đó trẻ nhà trẻ thường đi học không thường
xuyên nếu trẻ nghỉ học một vài ngày đến khi đi học trẻ lại khóc nhè, không thực
hiện được các nề nếp như các bạn, đây là một thử thách lớn cho cô giáo. Vì vậy
tôi cần phải kiên trì chịu khó để uốn nắn, rèn luyện trẻ vào nề nếp thì mới có kết
quả cao.
Ví dụ 1: Thông qua bài thơ: “ Cháu chào ông ạ ” giáo dục trẻ phải chào
hỏi lễ phép với ông bà, người lớn.
Bài thơ “ Yêu mẹ ” giáo dục trẻ mẹ đi làm vất vả để nuôi các con. Vậy
các con đi học phải chăm ngoan để được mẹ yêu.
Bài hát “ Đôi dép” Giáo dục trẻ hàng ngày phải đi dép để giữ vệ sinh giúp
đôi chân sạch sẽ, trắng tinh.
Thông qua bài thơ “ Giờ ăn, Giờ ngủ ” giáo dục trẻ biết rửa tay sạch sẽ,
giáo dục nề nếp thói quen vệ sinh cho trẻ. Trước khi ngủ tôi có thể hỏi trẻ giờ đi
ngủ các con phải làm gì? Hai mắt như thế nào? Giờ ăn tôi hỏi trẻ trước khi ăn
các con phải làm gì? (Rửa tay) Thế cơm rơi vãi con phải làm thế nào?
Ví dụ 2: Thông qua các giờ chơi tập để rèn luyện nề nếp học tập cho trẻ
như: Giờ kể chuyện tôi rèn cho trẻ cách ngồi học ngay ngắn, trả lời đủ câu rõ lời,

cơm...
Ví dụ 2: Khi đến lớp các con chào ai? (chào cô giáo và chào các bạn), Đồ chơi
trên giá các con có được lấy chơi không? Tại sao? (giáo dục trẻ không tự do lấy
đồ chơi khi cô chưa cho phép). Nhắc trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy
định, không tranh giành đồ chơi của bạn, không tự do đi lại trong lớp…
Ví dụ 3: Giờ ăn, ngủ tôi chuẩn bị nơi ngủ cho trẻ, hướng dẫn nhắc nhở trẻ
ăn xong lấy khăn lau miệng, uống nước, đi vệ sinh, lên giường ngủ, nằm ngủ
thoải mái . Tôi theo dõi nhắc nhở giúp đỡ trẻ khi cần thiết.

Giờ ăn trưa

12


Hình ảnh cô giáo đón trẻ, dạy trẻ chào mẹ
Ví dụ 2: Khi đến lớp các con chào ai? (chào cô giáo và chào các bạn), Đồ
chơi trên giá các con có được lấy chơi không? Tại sao? (giáo dục trẻ không tự
do lấy đồ chơi khi cô chưa cho phép). Nhắc trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi đúng
nơi quy định, không tranh giành đồ chơi của bạn, không tự do đi lại trong lớp…
Ví dụ 3: Giờ ăn, ngủ tôi chuẩn bị nơi ngủ cho trẻ, hướng dẫn nhắc nhở trẻ
ăn xong lấy khăn lau miệng, uống nước, đi vệ sinh, lên giường ngủ, nằm ngủ
thoải mái . Tôi theo dõi nhắc nhở giúp đỡ trẻ khi cần thiết.

13


Hình ảnh cô giáo hướng dẫn trẻ lau miệng phơi khăn lên giá

Giờ thể dục sáng
Tuy nhiên tôi cũng không nên làm trẻ quá tải với hàng loạt quy tắc, bởi

đúng mức, tuyệt đối không nên chê trẻ trước các bạn, trước lớp mà tôi có thể chê
trẻ bằng ngôn ngữ biểu cảm, giúp trẻ cảm nhận được sự không đồng tình của cô
với trẻ để nhận ra được điểm yếu của mình mà thực hiện tốt nhiệm vụ.
Ví dụ 3: Trong lớp có cháu Minh Ngọc hay nhõng nhẽo, đi học thường
xuyên khóc nhè, đến lớp không chào cô giáo… tôi đã kể cho trẻ nghe chuyện,
đưa ra một số câu hỏi như: Bạn gà con hôm nay đi học không chào cô giáo đấy,
các con thấy bạn gà con có ngoan không? Còn các con thì sao? Các con đến lớp
có chào cô giáo không nào? Các con chào như thế nào? Tôi cho chính cháu
Minh Ngọc nói lời chào cô và được các bạn vỗ tay tán thưởng, một vài lần như
vậy sẽ dần dần hình thành cho trẻ nề nếp chào hỏi, trẻ sẽ tự tin mạnh dạn trong
giao tiếp hơn.
2.3.5. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh.
Công tác phối hợp với phụ huynh là việc làm rất quan trọng và có hiệu
quả cao trong việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Chính vì vậy tôi đã sử dụng rất
nhiều các biện pháp để tuyên truyền với phụ huynh, giúp phụ huynh hiểu được
việc rèn thói quen nề nếp cho trẻ là rất cần thiết. Để trẻ khắc sâu và nhớ lâu thói
quen nề nếp có được khi ở trường lớp, thì về nhà trẻ cũng phải được thường
xuyên luyện tập thực hiện, có như vậy việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ
mới có nề nếp thực sự. Từ đó trẻ có kỹ năng thói quen tốt trong mọi hoạt động
hàng ngày cũng như các hành vi văn minh lịch sự trong mọi hoạt động và mọi
tình huống. Đặc biệt là những ngày đầu năm học, trẻ mới bắt đầu đi học. Vì trẻ ở
nhà được ông bà, bố mẹ và những người thân cưng chiều, không phải tuân thủ
những nề nếp sinh hoạt như ở lớp, nên một số thói quen được hình thành bị phá
vỡ. Một số trẻ lần đầu tiên được đến trường cảm thấy sợ hãi, thường khóc khi
chia tay bố mẹ để vào lớp và hay bị ốm sau một vài buổi đi học đầu tiên vì
không thích nghi kịp với sự thay đổi môi trường, chế độ sinh hoạt. Vì vậy nhà
trường và gia đình cần giúp trẻ mau chóng vượt qua giai đoạn này.
Ví dụ 1: Tôi tuyên truyền qua giờ đón, trả trẻ, qua họp phụ huynh trong
năm học, qua góc tuyên truyền của lớp. Trao đổi với phụ huynh thường xuyên
trò chuyện với trẻ để giúp trẻ biết vì sao phải đi học? Đi học vui như thế nào? Đi

nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt hơn.
2.4. Kết quả đạt được.
Qua áp dụng biện pháp trên trong năm học 2017 – 2018 bản thân tôi thu
được kết quả như sau:
Đối với trẻ: Trẻ ở lớp tôi phụ trách nề nếp thói quen tiến bộ rõ rệt, kết quả
cụ thể khảo sát cuối năm học như sau:
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm học (tháng 3/2018)
T
Nội Dung
Số
Đạt
Chưa đạt
T
trẻ Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ %
1

Nề nếp học tập

25

24

96

1

4

2


Nề nếp giờ ăn, ngủ

25
25

24
25

96
100

1
0

4
0

6

Nề nếp chào hỏi, xưng 25
25
100
0
0

Qua chất lượng khảo sát cuối năm được nâng lên rõ rệt: Thói quen nề nếp
trong học tập đạt 96% tăng 44% so với đầu năm học; nề nếp vui chơi đạt 96%
tăng 40% so với đầu năm học; nề nếp lao động tự phục vụ đạt 92 % tăng 36%
so với đầu năm học; nề nếp ăn - ngủ đạt 100% tăng 40% so với đầu năm học;
nề nếp vệ sinh đạt 100% tăng 42% so với đầu năm học, đây là kết quả rất đáng

trau dồi kỹ năng nghề nghiệp. Thường xuyên tham khảo sách vở, tài liệu, trên
mạng Intenet, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp để có biện pháp giáo dục phù
hợp,
Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm cá biệt của trẻ để có biện pháp
giáo dục, rèn luyện trẻ cho phù hợp.
Bản thân cô giáo và người lớn luôn là tấm gương tốt, mẫu mực làm gương
cho trẻ noi theo từ lời nói đến việc làm.
Cô giáo luôn tạo cơ hội cho trẻ tự làm công việc vừa sức, phù hợp với trẻ,
cô giáo thường xuyên khích lệ, hỗ trợ cần thiết và khen ngợi kịp thời khi trẻ làm
tốt.
Thường xuyên rèn nề nếp thói quen cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi và mọi hoạt
động .
Làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với phụ huynh về
công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
3.2 Kiến nghị.
Đối với phòng giáo dục: Tổ chức chuyên đề hè hàng năm. Tổ chức xây
dựng các hoạt động cho giáo viên thăm quan học tập rút kinh nghiệm.
Đối với nhà trường: Tham mưu với các cấp lãnh đạo mở rộng khuôn viên
nhà trường, sửa chữa chống xuống cấp cơ sở vật chất nhà trường để đảm bảo
cho công tác chăm sóc và giáo dục trẻ đạt kết quả tốt hơn.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Kinh nghiệm rèn nề
nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non Thị Trấn Rừng Thông, huyện Đông
18


Sơn, tỉnh Thanh Hóa.” Được tích lũy từ bản thân tôi không sao tránh khỏi
những thiếu sót. Vậy tôi rất mong hội đồng khoa học các cấp, bạn đồng nghiệp
đóng góp ý kiến để sáng kiến này hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


20


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Phan Thị Mơ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Mầm non thị trấn Rừng Thông,
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

T
T

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

1

Kinh nghiệm rèn nề nếp thói quen
cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status