Luận văn HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG cứ của LUẬT sư TRONG tố TỤNG dân sự - Pdf 51

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

--o0o--

ĐẶNG MINH CHIẾN

HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hà

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Lê Thị Hà.
Các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Trong quá trình thực hiện, Luận văn có tham khảo một số chuyên đề, các bài
viết có liên quan nhưng được trích dẫn nguyên văn, nguồn tài liệu trích dẫn được nêu
ra tại danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối Luận văn này.

: Tòa án nhân dân

VKS

: Viện Kiểm sát

UBND

: Ủy ban nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

~MỤC LỤC~


---o0o--PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1:


11

1.2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ và biện pháp thu thập chứng cứ

15

1.2.3. Đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Luật


17

CHƯƠNG 2:

22

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG
THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
22
2.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư 22
2.1.1. Quy định về nguyên tắc liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ của
Luật sư

22

2.1.2. Quy định chung về các biện pháp thu thập chứng cứ của Luật sư

24

2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ trước khi Tòa án thụ lý yêu cầu

2.4. Hoạt động thu thập chứng cứ tại phiên tòa

52

CHƯƠNG 3:

55

THỰC TIỄN THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ

55

3.1. Thực tiễn áp dụng các kỹ năng, biện pháp, và quy định của pháp luật
tố tụng dân sự về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư qua một số
vụ án.

55

3.2. So sánh hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư với các chủ thể
khác

66

3.2.1. Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư và của các cơ quan tiến hành
tố tụng.

66

3.2.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư và của đương sự

Nhằm bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp
luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong
quá trình tham gia tố tụng. Do vậy, việc thu thập chứng cứ nói chung và việc thu
thập chứng cứ của Luật sư nói riêng góp phần rất lớn vào việc làm sáng tỏ các tình
tiết khách quan của vụ việc dân sự, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ
việc dân sự. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ ảnh hưởng trực tiếp đến sự
đúng đắn trong các phán quyết của Tòa án trên cơ sở đánh giá chứng cứ một cách
khách quan và toàn diện.
Tuy nhiên, hiện nay việc thu thập chứng cứ của đương sự, Luật sư vẫn còn
nhiều hạn chế, qua thực tiễn của hoạt động tố tụng dân sự cũng như các quy định
của pháp luật hiện hành thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn đóng một
vai trò chủ yếu trong giải quyết vụ việc dân sự. Các quy định của pháp luật hiện
hành về hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự, Luật sư vẫn tồn tại nhiều hạn
chế, chưa thực sự hợp lý, thiếu tính rõ ràng và tồn tại nhiều bất cập trong thực tiễn
áp dụng. Yêu cầu đặt ra là cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp
luật nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm, vai trò của đương sự cũng như của Luật
sư trong hoạt động thu thập chứng cứ. Đồng thời, để tăng cường hiệu quả của việc
thu thập chứng cứ cũng đòi hỏi đội ngũ Luật sư cần phải nâng cao trình độ chuyên
môn cũng như các kỹ năng nghiệp vụ chuyên sâu khi tiến hành thu thập chứng cứ.
Do vậy, việc nghiên cứu một đề tài về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư
trong tố tụng dân sự là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân
sự là rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa trong việc cải cách tư pháp mà còn có ý
nghĩa rất lớn với chính đội ngũ Luật sư. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mới chỉ dừng
lại ở một số công trình khoa học nghiên cứu trên phạm vi rộng về chứng cứ và các
hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự hoặc có liên quan về vấn đề vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ dưới



luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung trong giới hạn những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ của
Luật sư trong tố tụng dân sự;
+ Nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện các hoạt động thu thập
chứng cứ của Luật sư theo pháp luật tố tụng dân sự;


8

+ Nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố
tụng dân sự và kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như chủ trương, chính sách về việc
xây dựng pháp luật tố tụng dân sự. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành được sử dụng để hoàn thành luận văn bao gồm: phương pháp lịch sử, phân
tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn có ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong
tố tụng dân sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ
của Luật sư trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố
tụng dân sự và kiến nghị.

CHƯƠNG 1:



Khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều nước đề cập đến. Cá
biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan trọng của vấn
đề này. Điều 401 Luật chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là những gì mà hàm
chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó
1 Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr. 192.


10

ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Luật tố tụng
dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết
được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được thuyết
phục là một tình tiết có tồn tại hay không?”2. Tại Việt Nam, Khái niệm chứng cứ
lần đầu tiên được ghi nhận tương đối đầy đủ tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng
như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Tiếp theo đó Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về khái niệm chứng cứ:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng
hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và
được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án
cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp
pháp.3
Tóm lại, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng
cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, chứng cứ là vấn đề mấu
chốt trong các tranh chấp dân sự, không có chứng cứ thì cũng không có hoạt động

xác bao nhiêu thì việc tranh luận và vai trò phân xử của Tòa án càng đơn giản bấy
nhiêu. Tuy nhiên, do bản chất việc cung cấp chứng cứ là không hề đơn giản ngay cả
khi đương sự có sự tham gia hỗ trợ của Luật sư. Bởi việc cung cấp chứng cứ còn
phụ thuộc vào yếu tố khách quan là quá trình thu thập chứng cứ cũng như yếu tố
chủ quan là mục đích sử dụng chứng cứ trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng
dân sự. Do vậy, với việc nộp đơn khởi kiện pháp luật chỉ quy định đương sự cung
cấp kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ.
Các tài liệu, chứng cứ khác người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo
yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án (Điều 6 Nghị Quyết
05/2012/NQ-HĐTP). Tại phiên tòa, các đương sự cũng có quyền xuất trình bổ sung
chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình (Khoản 3 Điều 248 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015).
Để bảo đảm quyền chứng minh của Luật sư, pháp luật Việt Nam không giới
hạn thời điểm cung cấp chứng cứ. Luật sư, đương sự có quyền cung cấp chứng cứ
từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện cho tới giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Khoản 1
Điều 199 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), giai đoạn xét sử sơ thẩm (Khoản 3
Điều 248 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), xét xử phúc thẩm (khoản 3 Điều 302
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Điều này đồng nghĩa với việc, hoạt động thu
thập chứng cứ của Luật sư cũng được diễn ra ngay từ trước khi nộp đơn khởi kiện
cho đến khi xét xử phúc thẩm. Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Luật


12

sư cần tự mình hoặc hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án.
Tuy vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào thì có lợi nhất là một vấn đề khó
khăn và là quyết định có tính chất chiến lược. Có những chứng cứ cần thiết phải
được cung cấp ngay cho Tòa án để nội dung của chứng cứ đó được chuyển tải cho
phía đương sự đối lập. Tuy vậy, có những chứng cứ nếu cung cấp ngay cho Tòa án
và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho mình. Đồng thời, hiện nay


này. Thực tiễn tham gia tố tụng cho thấy, phần lớn khi đương sự trực tiếp nộp đơn
khởi kiện đều gặp những khó khăn nhất định do đơn khởi kiện và hồ sơ kèm theo
còn nhiều thiếu sót hoặc do cán bộ Tòa án có thái độ không thiện chí khi nhận đơn.
Trong trường hợp này theo quy định tại Điều 190 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
sau khi chuẩn bị đơn khởi kiện và hồ sơ gửi kèm, Luật sư có thể hướng dẫn cho
khách hàng nộp đơn khởi kiện qua đường bưu điện hoặc bằng hình thức điện tử qua
Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu đương
sự thuộc trường hợp được miễn giảm án phí, Luật sư hướng dẫn cho đương sự làm
đơn xin miễn giảm án phí có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại
Pháp lệnh về án phí, lệ phí năm 2009. Trong trường hợp Tòa án ra thông báo sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện, hoặc trả lại đơn khởi kiện, Luật sư cần xem xét lại hồ
sơ, đối chiếu với các quy định của pháp luật để giúp đương sự sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện cho phù hợp. Nếu nhận thấy yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện hoặc
việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án không phù hợp với tình hình thực tế, không có
căn cứ pháp luật thì Luật sư giúp đương sự soạn thảo đơn khiếu nại gửi cá nhân, cơ
quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.
Theo Điều 243; Khoản 3 Điều 248 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì tại phiên
tòa các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ, nguyên đơn có quyền thay đổi nội
dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu. Trong quá trình tố tụng có
thể phát sinh hoặc sáng tỏ nhiều tình tiết, sự kiện mà trước đó chưa có hoặc bị che
giấu. Đồng thời từ khi khởi kiện cho đến khi tòa án đưa vụ án ra xét xử, các bên
đương sự và Tòa án đã thu thập và bổ sung rất nhiều chứng cứ mới có thể làm thay
đổi bản chất của vụ việc hoặc tác động đến việc chứng minh yêu cầu của các bên
đương sự. Do vậy, Luật sư cần xem xét, nghiên cứu hồ sơ và tư vấn cho đương sự
thay đổi nội dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu, hoặc đề xuất các yêu cầu sao cho phù
hợp với tình hình thực tế và chứng cứ có trong hồ sơ. Đối với các chứng cứ cung
cấp tại phiên tòa có thể là những chứng cứ mà đương sự đã có, đã thu thập được
trước đó nhưng chưa cung cấp cho Tòa án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương
sự mới thu thập được. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa có thể vì nhiều mục

hoạt động tố tụng dân sự. Và một trong số đó là nguyên tắc về việc cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự “Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động
thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng
cứ, chứng minh như đương sự” (khoản 1 Điều 6 BLTTDS năm 2015). Nguyên tắc
nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có tính chỉ đạo
xuyên suốt vì xuất phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải quyết các tranh chấp
giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là để bảo vệ các quyền và lợi ích của
4 Hoàng Thu Yến (2006), Luật sư trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội, tr.38;
5 Ph. Anghen, Chống Đuyrinh – NXB Sự Thật (1984), tr 56


15

mọi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên do những hiểu biết về kiến
thức pháp luật và kinh nghiệm tham gia tố tụng của đương sự còn hạn chế, nên khi
tham gia tố tụng và đặc biệt là khi tiến hành thu thập chứng cứ đương sự cần có sự
giúp đỡ của Luật sư – những người có trình độ hiểu biết pháp luật và có chuyên
môn nghiệp vụ.
Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong BLTTDS
năm 2015 được kế thừa từ các quy định trong BLTTDS năm 2004 (Điều 6); Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (Điều 3), Pháp lệnh thủ tục giải
quyết vụ án kinh tế năm 1994 (Điều 3) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp
lao động năm 1996 (Điều 2). Tuy nhiên, trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời và sau
là BLTTDS năm 2015 thì thì vẫn tồn tại giai đoạn điều tra của Tòa án trong tố tụng
dân sự, và như vậy việc chứng minh, thu thập chứng cứ chủ yếu được tiến hành bởi
Tòa án. Hầu hết các đương sự thì hoàn toàn phụ thuộc vào việc điều tra của Tòa án,
còn các Luật sư tham gia tố tụng một cách thụ động qua việc nghiên cứu hồ sơ

năm 2015 – chứng minh và chứng cứ, đều thuộc về đương sự như: đương sự có
quyền được khai báo (Điều 98), yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều
99), yêu cầu đối chất (Điều 100), giám định, giám định bổ xung (Điều 102), yêu cầu
định giá tài sản (Điều 104), yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao
chứng cứ (Khoản 6 Điều 70).
Tóm lại, khi tham gia tố tụng dân sự Luật sư có quyền và trách nhiệm chứng
minh. Luật sư phải thực hiện hoạt động chứng minh thông qua việc cung cấp chứng
cứ, chứng minh cho yêu cầu của thân chủ là có căn cứ và hợp pháp. Và để có chứng
cứ cung cấp cho Tòa án Luật sư phải tiến hành thu thập chứng cứ.
1.2. Vấn đề thu thập chứng cứ của Luật sư trong tố tụng dân sự.
1.2.1. Luật sư và Nghề Luật sư
Khi nhắc đến Luật sư thì có thể hiểu đó là danh từ chỉ người, một chức danh
tư pháp độc lập, hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và cũng có thể hiểu Luật sư là
một nghề thuộc các ngành dịch vụ trong hệ thống ngành nghề quốc gia. Pháp lệnh
Tổ chức Luật sư năm 1987 không đưa ra một định nghĩa về Luật sư, mà chỉ quy
định muốn làm Luật sư thì phải đủ điều kiện và gia nhập Đoàn Luật sư. Đến Pháp
lệnh Luật sư năm 2001, khái niệm Luật sư mới được đặt ra, theo đó, Luật sư là
người có đủ điều kiện hành nghề Luật sư (Điều 1 Pháp lệnh Luật sư). Người muốn
hành nghề Luật sư phải gia nhập Đoàn Luật sư và có Chứng chỉ hành nghề Luật sư
(Điều 7 Pháp lệnh Luật sư). Người được gia nhập Đoàn Luật sư, để trở thành Luật
sư phải qua tập sự và kỳ kiểm tra hết tập sự, nếu đạt yêu cầu thì được Ban chủ
nhiệm Đoàn Luật sư đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư (Điều
13 Pháp lệnh Luật sư).Tuy nhiên, quy định về Luật sư trong Pháp lệnh Luật sư năm
2001 chủ yếu để đưa ra cách hiểu thuật ngữ chứ không hàm ý đưa ra khái niệm. Đến
Luật Luật sư năm 2006, khái niệm Luật sư được hoàn thiện hơn. Theo Điều 2 Luật
Luật sư thì: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định


17


hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, biết cách tìm kiếm, thu thập và sử

6 Điều 10 Luật Luật sư năm 2006


18

dụng chứng cứ để thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình cũng
như bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật.
+ Thứ ba, tính chất phản biện: Là dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và
đạo lý để đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của
người khác. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi
khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những
biện pháp, quan điểm phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái.
Theo quy định của pháp luật thì nội dung của nghề Luật sư bao gồm:
1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
2. Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
3. Thực hiện tư vấn pháp luật.
4. Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên
quan đến pháp luật.
5. Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này.7
Nhìn chung, Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề
nghiệp của cá nhân Luật sư, phẩm chất và năng lực cá nhân của Luật sư là yếu tố
quyết định trong nghề Luật sư. Luật sư là một nghề góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ

trước Tòa án. Do đó họ cần sự giúp sức của Luật sư là người có trình độ hiểu biết
pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tham gia tố tụng để bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
* Vai trò của Luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp phần bảo về quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự. Luật sư trước
hết phải là chuyên gia pháp luật, bên cạnh việc trực tiếp tham gia tranh tụng Luật sư
còn đóng vai trò tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân để họ nhận thức
và thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Cụ thể, Luật
sư tư vấn, giải đáp cho đương sự các vấn đề khúc mắc có liên quan đến vụ án trên
cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật, soạn thảo các văn bản liên quan. Việc tư
vấn pháp luật của Luật sư cũng góp phần giảm thiểu được những tranh chấp trong
xã hội, hạn chế được những vi phạm pháp luật do sự thiếu hiểu biết pháp luật của
người dân gây ra.
* Vai trò của Luật sư trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Là người có kiến thức pháp luật sâu rộng, thông


20

qua việc tham gia tố tụng dân sự Luật sư góp phần quan trọng trong việc tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó, Luật sư
có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bằng
việc phát hiện những hạn chế, thiếu sót của pháp luật trong quá trình Luật sư tham
gia tố tụng.
* Sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự không chỉ giúp đương sự bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác,
khách quan và toàn diện.
Có thể thấy rằng vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự là rất quan trọng nhằm giúp các đương sự hiểu đúng, hiểu đủ

của chủ thể chứng minh.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Luật
sư trong tố tụng dân sự như sau: Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư là hoạt
động tham gia tố tụng của Luật sư bằng việc tìm kiếm, phát hiện, thu lại các thông
tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc nhằm làm rõ các tình tiết khách quan
của vụ việc qua đó xác định các căn cứ cần thiết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thu thập chứng cứ là một trong những biện pháp để Luật sư bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của thân chủ khi tham gia tố tụng, đồng thời cũng là biện pháp
nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Hai yếu tố cấu thành vụ án dân
sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng – mục
đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước Tòa
án). Hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và của Luật sư nói riêng được xếp vào
các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này đồng nghĩa với việc các tình
tiết, yếu tố cấu thành vụ việc đã vốn có, vốn đã tồn tại, thông qua quá trình thu thập
chứng cứ, Luật sư đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất về nội
dung vụ việc. Hay nói cách khác, hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư là hoạt
động thông qua việc tìm kiếm, tập hợp lại chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách
quan của vụ án.
Và để chứng cứ có giá trị chứng minh thì việc thu thập chứng cứ phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật thông qua các biện pháp thu thập chứng cứ
hợp pháp. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì “biện pháp” được hiểu là “cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể”10. Như vậy, nếu kết hợp khái niệm “biện pháp”
và khái niệm hoạt động “thu thập chứng cứ” thì khái niệm biện pháp thu thập
chứng cứ được hiểu là: cách làm, cách thực hiện hoạt động tìm kiếm, tập hợp, góp
nhặt các tài liệu, các tình tiết có liên quan tới một vụ việc dân sự nhằm khôi phục lại
sự thật khách quan của vụ việc đó. Công tác thu thập chứng cứ là khâu quan trọng
nhất trong quá trình chứng minh, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh còn lại
10 Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.64


khác so với đương sự vì Luật sư cùng thuộc nhóm những người tham gia tố tụng.
Như vậy, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền thu thập chứng cứ của
Luật sư khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Đây là sự thay đổi rất lớn của Bộ luật Tố tụng dân sự so
với PLTTGQCVADS năm 1989 về quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Trước đây theo PLTTGQCVADS năm 1989 thì Luật sư hay nói
11 Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


23

chung là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia vào quá
trình tố tụng khi hồ sơ vụ án gần như đã hoàn tất và Luật sư chỉ tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ bằng việc đọc, sao chụp hồ sơ sẵn có để
nghiên cứu đưa ra quan điểm bảo vệ cho đương sự theo các tài liệu, chứng cứ đã có
trong hồ sơ. Do vậy, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Luật sư khi tham gia tố
tụng dân sự là khá mờ nhạt, không được đánh giá cao. Mãi đến năm 2004 thông qua
Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời đã ghi nhận, khẳng định nguyên tắc tự chứng minh,
nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Đồng thời năm 2011, khi sửa đổi bổ sung
BLTTDS 2004, lần đầu tiên nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được Nhà nước
ta ghi nhận trong Điều 23a của BLTTDS sửa đổi 2011 với nội dung: “Điều 23a. Bảo
đảm quyền tranh luận tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án
bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Đây là
sự thay đổi quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp của nước ta. Các quy
định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư tham ra sâu rộng vào quá trình tố
tụng dân sự, đặc biệt qua việc chủ động thu thập chứng cứ để bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng và hoạt động chứng minh. Hơn thế nữa, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 không chỉ kế thừa Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 trong việc ghi nhận nguyên tắc
tranh tụng và quyền, nghĩa vụ chứng minh của đương sự mà còn quy định cụ thể

việc quy định quá trình tố tụng dân sự phải được diễn ra trong một khoảng thời gian
luật định. Đồng thời việc quy định thời hạn cho việc thu thập chứng cứ cũng để
tránh tình trạng kéo dài thời gian, việc thu thập chứng cứ không đi vào trọng tâm,
không bám sát các vấn đề cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Đối với cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ giao nộp cho đương sự,
Tòa án khi nhận được yêu cầu của đương sự, Tòa án. Thời hạn giao nộp các chứng
cứ trong trường hợp này đã được pháp luật quy định cụ thể là 15 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của đương sự, Tòa án Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Tuy nhiên, hiện nay các hoạt động bổ trợ tư pháp còn nhiều hạn chế, chưa có
sự thống nhất thực hiện trên thực tế. Vai trò hỗ trợ của Luật sư chưa phát huy được
hiệu quả cao. Dẫn đến việc các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình để chứng
minh cho yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác phần lớn chưa
bảo đảm về mặt thủ tục, hình thức cũng như chất lượng nội dung.
“Trong thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án thì tỉ lệ số vụ
việc dân sự giải quyết dựa vào chứng cứ và việc tự chứng minh của các đương sự là
rất ít, hầu hết các vụ việc dân sự được giải quyết đều do Tòa án chủ động, tích cực
xác minh, thu thập chứng cứ”12. Việc Tòa án tham gia thu thập chứng cứ là nhằm
mục đích làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, và đưa ra được một bản án,
quyết định đúng pháp luật, phù hợp với thực tế khách quan trên cơ sở bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên đương sự. Tuy nhiên, do bản thân Tòa
án không thu thập chứng cứ với ý nghĩa là bảo vệ quyền lợi bị xâm phạm của mình
12 Nguyễn Văn Thành (2013), Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự, Luận văn
thạc sĩ, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.4


25

nên có những hạn chế nhất định về mặt khách quan cũng như chủ quan trong quá
trình thu thập chứng cứ đối với mục đích chứng minh của đương sự.
Do vậy, có thể thấy sự tham gia thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ mang tính

Luật sư sẽ xác định được các tài liệu chứng cứ cần phải thu thập, và thời điểm cung



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status