Hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn - Pdf 56

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NÔNG THỊ HUYỀN TRANG

HOẠT ĐỘNG THU THẬP VÀ ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NÔNG THỊ HUYỀN TRANG

HOẠT ĐỘNG THU THẬP VÀ ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH LẠNG SƠN


Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP
VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

6

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động thu thập và đánh giá
chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự

6

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ
của Tòa án

21

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động thu
thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án nhân dân

24

Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THU THẬP VÀ ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG TỈNH
LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

49

2.1. Một số nét khái quát về tỉnh Lạng Sơn và các Tòa án nhân dân trong
tỉnh Lạng Sơn


TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS

: Tố tụng dân sự

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Biểu đồ thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn
từ năm 2013 đến năm 2017

2.2

Biểu đồ giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn từ
năm 2013 đến năm 2017

2.3

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLTTDS 2015) được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10
thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 đã tạo ra một
khung pháp lý về các hoạt động tố tụng dân sự (TTDS), góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết các vụ việc dân sự, đảm bảo tranh tụng trong xét xử đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp đã đề ra. BLTTDS 2015 đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ
chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ là của đương sự.
Tuy nhiên, với đặc điểm là tỉnh miền núi biên giới nằm ở vùng Đông Bắc
của đất nước, Lạng Sơn có nhiều dân cư là người dân tộc thiểu số sinh sống ở
những vùng sâu vùng xa, trình độ nhận thức hạn chế, nhiều đương sự không biết
chữ hoặc chỉ biết ký tên nên không tự mình thực hiện được việc thu thập, giao nộp
chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, để đảm bảo
giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, việc giải quyết các vụ việc dân sự
ở Lạng Sơn rất chú trọng áp dụng các quy định của BLTTDS 2015 về thu thập và
đánh giá chứng cứ của Tòa án nhân dân (TAND) trong quá trình giải quyết vụ việc.
Các hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ của TAND được quy định từ
Điều 97 đến Điều 108 của BLTTDS 2015. So với các quy định về thu thập, đánh
giá chứng cứ của các văn bản pháp luật trước đây thì những quy định của BLTTDS
2015 đã quy định tương đối rõ ràng và đầy đủ về điều kiện, trình tự và cách thức
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên đã tạo thuận lợi cho các Tòa án trong việc
giải quyết vụ việc dân sự. Bên cạnh những ưu điểm đó, qua thực tiễn áp dụng
BLTTDS 2015 tại các TAND trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cho thấy vẫn còn một số
vướng mắc, bất cập khi thực hiện hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ. Thực
tiễn giải quyết, xét xử của Tòa án cho thấy việc giải quyết các vụ việc dân sự (bao
gồm dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) luôn là chủ
đề nóng bởi tính chất phức tạp của vụ việc, nhiều vụ án đã bị cấp phúc thẩm, cấp


2



3

về hoạt động thu thập hoặc đánh giá chứng cứ của Tòa án nhưng cho đến nay khi
điều kiện kinh tế, xã hội đã có nhiều thay đổi, BLTTDS 2015 đã được thực hiện qua
một thời gian thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
và chuyên sâu về hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ của Tòa án trong TTDS.
Bên cạnh đó, với đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế, xã hội và con người ở Lạng Sơn
có những khác biệt so với các địa phương khác trong cả nước nên việc thực hiện đề
tài "Hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự và
thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn" là công việc có ý nghĩa
đối với hoạt động thực tiễn của các TAND hai cấp trong tỉnh Lạng Sơn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và nội dung các quy định của BLTTDS 2015
về hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án. Đồng thời, chỉ ra những
điểm còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý.
Nghiên cứu những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn thực hiện BLTTDS
2015 về hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ tại TAND hai cấp trong tỉnh Lạng
Sơn. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ tại các TAND
trong tỉnh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài này phải giải quyết được những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu được một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về thu thập, đánh giá
chứng cứ trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thu thập, đánh giá
chứng cứ trong TTDS.
- Phân tích, đánh giá được các quy định của BLTTDS 2015 về hoạt động
thu thập và đánh giá chứng cứ của Tòa án và thực tiễn áp dụng tại các TAND trên

pháp lý mới có hiệu lực từ tháng 7/2016 về thu thập, đánh giá chứng cứ.
- Làm rõ được thực trạng áp dụng pháp luật về thu thập, đánh giá chứng cứ
tại các TAND ở Lạng Sơn, trên cơ sở đó đề xuất được một số kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về thu thập, đánh giá chứng cứ của Tòa án.


5

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động thu thập và đánh giá chứng
cứ của Tòa án nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ tại các Tòa
án nhân dân trong tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện.


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP
VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động thu thập và đánh giá
chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
Vấn đề chứng cứ và chứng minh là một trong những chế định quan trọng
nhất trong TTDS. Bởi hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng
cứ là cả một quá trình để xác định sự thật của vụ án, là cơ sở để Tòa án đưa ra


1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước
Trong TTDS, quá trình chứng minh để tìm ra sự thật khách quan của vụ
việc dân sự bao gồm bốn giai đoạn: Cung cấp, giao nộp chứng cứ; thu thập chứng
cứ; phân tích, nghiên cứu chứng cứ và cuối cùng là đánh giá chứng cứ. Hoạt động
thu thập chứng cứ được thực hiện sau hoạt động cung cấp, giao nộp chứng cứ. Nếu
hoạt động cung cấp, giao nộp chứng cứ chủ yếu là của đương sự, người đại diện của
đương sự, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu thì hoạt động thu thập chứng cứ
lại do Tòa án thực hiện sau khi nhận thấy cần có thêm chứng cứ để giải quyết vụ
việc dân sự và đương sự cũng có yêu cầu Tòa án thu thập thêm chứng cứ. Khác với
hoạt động của đương sự hay người đại diện của đương sự là không nhân danh Nhà
nước, không dựa trên quyền lực nhà nước, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
là nhân danh Nhà nước, đại diện cho Nhà nước giải quyết các vụ việc dân sự phát
sinh tại TAND. Điều này được thể hiện rất rõ tại Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định
chức năng, hệ thống tổ chức và nhiệm vụ của TAND như sau: "1. Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp" nhằm đảm bảo cho Tòa án thực hiện được nhiệm vụ là cơ quan bảo vệ
công lý. Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 cũng khẳng định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của TAND: "1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân".
Như vậy, Tòa án nhân danh Nhà nước, đại diện cho Nhà nước và thực hiện
quyền lực nhà nước giao để giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định của pháp
luật. Quyền giải quyết các vụ việc dân sự này chính là quyền tư pháp và khi Tòa án
thực hiện quyền giải quyết các vụ việc dân sự thì chính là Tòa án đang thực hiện
quyền tư pháp. Mặc dù cho đến hiện tại chưa có điều luật nào quy định rõ quyền tư

5. Trần Phương Thảo (2017), Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thực hiện quyền tư pháp, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 1 (298).


11

điểm khác biệt với hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự, quá trình chứng minh để làm sáng tỏ sự thật khách quan của
vụ án hình sự bao gồm ba giai đoạn: Thu thập chứng cứ; phân tích, nghiên cứu
chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Trong quá trình chứng minh này không có giai
đoạn cung cấp chứng cứ bởi người có hành vi nguy hiểm cho xã hội thường có tâm
lý che giấu, lẩn trốn nên họ thường không cung cấp chứng cứ để chứng minh mình
phạm tội. Trách nhiệm chứng minh họ phạm tội để Nhà nước có thể trừng phạt họ
là của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật trong TTDS lại khác có điểm khác biệt do
người có quyền, lợi ích bị xâm phạm, khi có yêu cầu đến Tòa án họ thường cố gắng
để chứng minh quyền, lợi ích bị xâm phạm đó là của họ, vì vậy chứng cứ để giải
quyết vụ việc dân sự chủ yếu là do đương sự chủ động cung cấp, chỉ khi họ không
thể cung cấp được, họ yêu cầu Tòa án thì Tòa án mới tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ. Như vậy, mặc dù hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là dựa trên
việc sử dụng quyền lực nhà nước nhưng cũng chỉ với mục đích thu thập thêm chứng
cứ chứ không phải là thu thập từ đầu các chứng cứ, tài liệu cần thiết.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án thường được tiến hành theo yêu
cầu giải quyết vụ việc dân sự
Một trong các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong TTDS là nghĩa vụ
chứng minh thuộc về đương sự hoặc người có yêu cầu. Khi tham gia tố tụng, đương
sự, người có yêu cầu có nghĩa vụ cung cấp, giao nộp chứng minh, do vậy họ phải
thu thập chứng cứ để giao nộp cho Tòa án nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu
đương sự có yêu cầu nhưng có người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp thì những người này phải giúp đương sự tiến hành việc thu thập chứng cứ để
cung cấp cho Tòa án. Nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh trước tiên thuộc

Trong TTDS, khi thực hiện bất cứ hoạt động tố tụng nào cũng cần phải tuân
thủ trình tự, thủ tục do pháp luật quy định bởi có như vậy mới tạo nên một quy trình
giải quyết vụ việc dân sự thống nhất, khách quan, công bằng và bình đẳng. Pháp
luật TTDS bao giờ cũng có các quy định tương đối cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ
tục để Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Mục đích của việc xây dựng những quy
định này là đảm bảo chứng cứ do Tòa án thu thập được phải có tính hợp pháp đồng
thời đảm bảo việc thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án luôn tuân
theo quy định của pháp luật, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của Thẩm phán trong
giải quyết vụ việc dân sự.


13

Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án muốn đạt hiệu quả cao đòi hỏi
Thẩm phán phải tiến hành các hoạt động tố tụng theo đúng quy định của pháp luật
nhằm đảm bảo độ tin cậy và tính khách quan của các chứng cứ do Tòa án thu thập,
là căn cứ để Tòa án đưa ra các phán quyết nghiêm minh, chuẩn xác, công bằng, có
sức thuyết phục cao.
1.1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là tiền đề cơ bản để giải quyết vụ
việc dân sự được khách quan, công bằng, đúng pháp luật và nhanh chóng, kịp thời
Tòa án thu thập chứng cứ nhằm tìm kiếm những chứng cứ cần thiết cho
việc giải quyết vụ việc dân sự và việc tìm kiếm này do Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ việc dân sự thực hiện, người trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ việc và trên cơ
sở hồ sơ này để giải quyết vụ án. Việc xây dựng hồ sơ vụ án được thực hiện thông qua
quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, vì vậy, việc xây dựng hồ sơ vụ việc dân sự có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong giải quyết vụ việc dân sự đó. Trách nhiệm của Thẩm
phán là phải đảm bảo trong hồ sơ vụ việc dân sự có đầy đủ chứng cứ làm căn cứ cho
việc giải quyết vụ án. Chỉ khi nào hồ sơ vụ việc được thu thập đầy đủ tài liệu, chứng
cứ thì Tòa án mới có căn cứ để giải quyết vụ việc được đúng pháp luật. Bên cạnh

chứng cứ; thu thập những chứng cứ mà đương sự không có khả năng thu thập. Căn
cứ theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra các quyết định
như trưng cầu giám định, định giá tài sản, yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức giao
nộp chứng cứ… Và như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án có mục đích
là để hỗ trợ cho các đương sự trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm giúp Tòa án thực hiện vai
trò, chức năng là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ công bằng trong xã hội.
Ngay từ khi mới hình thành Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quan tâm đến nhiệm vụ của Tòa án trong việc bảo vệ công lý. Điều
47 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 quy định cách tổ chức ngạch Tòa án và các
ngạch Thẩm phán ở Việt Nam khẳng định "Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật
và công lý"; đến nay, tại Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND như sau: "1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án


15

nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân".
Tòa án nhân dân ngoài nhiệm vụ xét xử những vụ án dân sự, hôn nhân và
gia đình, lao động, kinh doanh thương mại và các vụ án khác theo quy định của
pháp luật thì trong phạm vi chức năng của mình, TAND có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Quy định này
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam; phần lớn dân số nước ta đều
làm nông nghiệp, khi có tranh chấp người dân với trình độ hiểu biết pháp luật hạn
chế, điều kiện kinh tế khó có thể tiếp cận các dịch vụ pháp lý sẽ gặp khó khăn khi

đúng bản chất của sự vật của vụ án. Hiểu một cách ngắn gọn hơn thì đánh giá chứng
cứ là nhận định giá trị chứng minh của chứng cứ7. Xét về bản chất thì đánh giá
chứng cứ là một quá trình tư duy logic, là hoạt động suy luận dựa trên cơ sở nhận
thức và tri thức của người đánh giá về đối tượng đánh giá. Nói theo một cách khác,
đánh giá chứng cứ chính là "quá trình logic nhằm xem xét giá trị chứng minh của
chứng cứ và mối liên hệ giữa các chứng cứ với nhau"8.
Cụ thể hơn dưới góc độ hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án thì đánh
giá chứng cứ chính là hoạt động tư duy logic của Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc dân sự và tại phiên tòa thì là của các thành viên của Hội đồng xét xử
tiến hành trên cơ sở những hiểu biết về những tình tiết, sự kiện đã thu thập được,
dựa trên cơ sở các quy định pháp luật và niềm tin nội tâm để xác định độ tin cậy và
giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như tất cả các chứng cứ trong vụ việc
dân sự nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ việc dân sự một cách khách quan, toàn diện.
Việc đánh giá chứng cứ của Tòa án phải khách quan, toàn diện và chính xác. Khi
đánh giá chứng cứ không thể bị chi phối bởi suy nghĩ chủ quan, tức là không được
kết luận trước về vụ việc mà phải đánh giá về các tình tiết, sự kiện sau đó mới đi
đến kết luận phù hợp. Hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án có tính quyết định
đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự bởi chỉ sau khi đánh giá chứng cứ thì mới
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, nXB Công an nhân dân, tr. 188.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giaó trình Luật tố tụng dân sự, nXB Công an nhân dân, tr. 166.
8. TS. Bùi Thị Huyền (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nxb Lao
động, tr. 172.


17

khẳng định được tình tiết, sự kiện nào là chứng cứ dùng để giải quyết vụ việc dân
sự. Chứng cứ khi đã được đánh giá sẽ được công bố công khai (trừ một số trường
hợp có quy định khác), được sử dụng để kết luận về vụ việc dân sự nên mới có ý
nghĩa quyết định tới kết quả giải quyết vụ việc dân sự.

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc và các thành viên của Hội đồng xét
xử. Vì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc là người xây dựng hồ sơ vụ
án, cần thiết phải tiến hành hoạt động đánh giá chứng cứ đối với các chứng cứ thu
thập được trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội
đồng xét xử phải tiến hành đánh giá chứng cứ để đưa ra những phán quyết chuẩn
xác nhất, giải quyết vụ việc đúng đắn nhất.
- Hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án được tiến hành trên cơ sở kết
quả của việc cung cấp, giao nộp chứng cứ và thu thập chứng cứ và được thực hiện
theo quy định của pháp luật
Đánh giá chứng cứ là bước tiến hành tố tụng cuối cùng trong quá trình
chứng minh và chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở những chứng cứ đã có trong hồ
sơ vụ án. Như trên đã phân tích, các chứng cứ trong hồ sơ phải được thu thập từ
hoạt động cung cấp, giao nộp của đương sự, của những chủ thể tố tụng khác và từ
chính hoạt động thu thập thêm chứng cứ của Tòa án. Khi đánh giá chứng cứ, việc
đánh giá chứng cứ phải dựa trên các quy định của pháp luật thì kết quả đánh giá
chứng cứ mới đảm bảo tính hợp pháp và chính xác. Kết quả đánh giá chứng cứ phải
được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự.
1.1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ của Tòa án là giai đoạn cuối cùng của quá trình chứng
minh trong TTDS. Là một hoạt động nhận thức, có tính tư duy logic cao nên đánh
giá chứng cứ là giai đoạn phức tạp nhất trong toàn bộ quá trình chứng minh vụ việc
dân sự, đòi hỏi chủ thể đánh giá không chỉ có thẩm quyền đặc biệt, có năng lực đặc
biệt mà còn phải có phẩm chất đạo đức đặc biệt. Với quyền lực nhà nước giao, Tòa
án có khả năng đánh giá chứng cứ tốt hơn các chủ thể khác bởi khi cần thiết Tòa án
có thể thu thập được thêm những chứng cứ mà các chủ thể tố tụng khác không thể
thu thập được để đánh giá chứng cứ. Vì có thẩm quyền và khả năng đặc biệt nên chỉ
Tòa án mới là chủ thể kết luận về kết quả đánh giá chứng cứ trong TTDS và kết quả
đánh giá đó không chỉ có ý nghĩa ảnh hưởng mà còn có ý nghĩa quyết định đối với



"xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status