Thực trạng tăng acid uric máu và một số yếu tố liên quan của cán bộnhân viên trường đại học y hà nội năm 2014 - Pdf 56

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, các nhà khoa học Việt Nam đã tập
trung nghiên cứu các rối loạn liên quan đến hội chứng chuyển hóa như thừa
cân, béo phì, tăng glucose máu, rối loạn lipid máu ở cả cộng đồng và bệnh
viện [1], [2], [3]. Bên cạnh đó, thực trạng tăng acid uric máu ở Việt Nam đã
bắt đầu thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong vài năm gần
đây [4].
Các nghiên cứu về tăng acid uric máu hơn nửa thế kỷ qua cho thấy
nồng độ acid uric máu đã tăng lên nhanh chóng. Nghiên cứu thuần tập theo
dõi dữ liệu Y khoa trong 52 năm ở Mỹ chỉ ra rằng nếu như giai đoạn 1954 1958 nồng độ acid uric máu trung bình là 5 mg/dl ở nam và 3,9 mg/dl ở nữ thì
đến giai đoạn 1972-1976, nồng độ trung bình này đã tăng lên 5,7 mg/dl ở nam
và 4,7 mg/dl ở nữ [5]. Tác giả Doãn Thị Tường Vi nghiên cứu tỉ lệ tăng acid
uric máu ở cán bộ viên chức Hà Nội và các tỉnh lân cận đến khám sức khỏe
tại bệnh viện 19/8 cho thấy tỉ lệ mắc chung là 4,9% trong đó nhóm nam giới
30 - 60 tuổi có tỉ lệ tăng acid uric máu là 6,2%, nữ là 2,5% [6]. Nghiên cứu
của Lê Văn Đoàn trên đối tượng cán bộ quân đội tuổi trung niên tại quân khu
9 cho thấy tỉ lệ tăng acid uric máu trong nhóm này là 26,2%, tỉ lệ mắc có xu
hướng tăng theo tuổi. Các yếu tố liên quan được xác định trong nghiên cứu
này là tuổi, chế độ ăn giàu đạm, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, thừa cân,
béo phì [3]. Như vậy, đây là một trong những vấn đề mới nổi, có tính chất
thời sự, có mối liên quan chặt chẽ đến sự thay đổi chế độ ăn, lối sống và các
rối loạn chuyển hóa khác. Tuy nhiên, các nghiên cứu về lĩnh vực này hiện nay
vẫn còn khá khiêm tốn. Những người tăng acid uric máu có nguy cơ bị tăng
huyết áp, cholesterol, triglycerid huyết thanh cao hơn so với những người


2
bình thường. Các nghiên cũng đã phát hiện rất nhiều bệnh nhân mắc hội
chứng chuyển hóa mà trong đó tăng acid uric máu là một phần quan trọng của

hợp và chuyển hóa purin xảy ra ở mọi tổ chức nhưng sự tổng hợp acid uric chỉ
diễn ra ở các tổ chức có chứa enzym xanthin oxydase (nghĩa là thực hiện chủ
yếu ở gan và ruột non). Bình thường lượng acid uric được tạo ra hàng ngày từ
tổng hợp nội sinh khoảng 350 mg và từ purin của thức ăn khoảng 300 mg.
Lượng acid uric đào thải ra khỏi cơ thể hàng ngày cũng tương đương, khoảng
650 mg, chủ yếu qua thận (80%) và một phần thải qua đường tiêu hóa.
Như vậy, lượng acid uric trong cơ thể được xác định bởi sự cân bằng
giữa tổng hợp và đào thải. Bình thường quá trình này ở trạng thái cân bằng.
Tổng lượng acid uric trong cơ thể có khoảng 1000mg và được phản ánh qua
lượng acid uric trong máu. Ở pH là 7,4 trong huyết tương, acid uric tồn tại
chủ yếu dưới dạng monosodium urat. Nồng độ acid uric máu trung bình ở
nam giới là 50 ± 29mg/l (hay 180-420 µmol/l) và ở nữ là 40 ± 20mg/l (hay
150-360 µmol/l) [7]. Khi nồng độ acid uric máu vượt qua giới hạn này được
gọi là tăng acid uric máu. Ngưỡng xác định tăng acid uric máu được dựa trên
các yếu tố vật lý, hóa học, sự hòa tan của sodium urat ở 370C với pH khoảng
7,4 trong huyết tương. Khi nồng độ acid uric tăng cao thì huyết tương bị bão
hòa và trong vài điều kiện vật lý, sự lắng đọng của sodium urat ở cơ quan


4
đích trong cơ thể có thể xảy ra.
1.1.2. Tăng acid uric
Tăng acid uric có 2 loại nguyên phát và thứ phát được phân biệt
theo cơ chế bệnh sinh, chẩn đoán [8].
1.1.2.1. Tăng acid uric máu nguyên phát
- Yếu tố thức ăn: bệnh khởi phát thường do ăn và uống quá nhiều bia,
rượu. Các nghiên cứu đã chỉ ra có mối liên quan giữa trọng lượng cơ
thể và nồng độ acid uric máu. Bia chứa nhiều purin có nguy cơ cao
nhất. Ethanol tăng sản xuất acid uric do đẩy nhanh chu trình adenosine
triphosphate. Ăn nhiều hải sản làm tăng 50% nguy cơ tăng acid uric

Zhu cho biết nồng độ acid uric máu trung bình ở nam giới là 6,14 mg/dl và ở
nữ giới là 4,87 mg/dl, tỉ lệ tăng acid uric máu khoảng 20% dân số. Tương ứng
với tỉ lệ tăng acid uric máu, tỉ lệ mắc Gout ở Hoa Kì cũng chiếm tỉ lệ khá cao
3,9% (trong đó nam giới chiếm 5,9%, nữ giới chiếm 2%) [14].
Nghiên cứu về tăng acid uric máu của Robinson tại Úc chỉ ra rằng tăng
acid uric máu cũng chiếm tỉ lệ cao so với một số nước trong khu vực có cùng
điều kiện kinh tế. Tỉ lệ tăng acid uric máu đã tăng nhanh từ năm 1959 so với
năm 1980 (17% ở nam giới độ tuổi 30-40) ở quần thể dân cư gốc Úc. Tương
ứng, tỉ lệ mắc cũng tăng từ 0% năm 1965 đến 9,7% ở nam và 2% ở nữ năm
2002. Tỉ lệ mắc ở người cao tuổi của Úc đứng hàng thứ 2 sau New Zealand là
nước có báo cáo tỉ lệ mắc cao nhất thế giới [15].
Thực trạng tăng acid uric máu không chỉ tồn tại ở các quốc gia đã phát
triển từ lâu đời mà còn lan rộng ở các quốc gia đang phát triển ở châu Âu
cũng như châu Á. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tác giả Sari cho thấy rằng tỉ lệ tăng acid
uric máu trong cộng đồng dân cư khu vực thành thị là 12,1% và tỉ lệ mắc có


6
liên quan đến các bệnh lý tăng huyết áp, tim mạch, đái tháo đường và hội
chứng chuyển hóa [16]. Nhiều nghiên cứu về tăng acid uric máu ở Trung
Quốc cho thấy tỉ lệ này thay đổi tùy theo điều kiện địa dư, khí hậu và điều
kiện kinh tế. Tác giả Miao thực hiện trên 5003 đối tượng tuổi trưởng thành tại
5 vùng ven biển của tỉnh Sơn Đông Trung Quốc cho thấy tỉ lệ tăng acid uric là
13,19% trong đó tỉ lệ mắc ở nam giới là 18,3%, nữ giới là 8,56%. Tăng acic
uric phổ biến hơn ở nam giới trên 30 tuổi và nữ giới trên 50 tuổi, tỉ lệ mắc ở
khu vực thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn (14,9 và 10,1%) [17]. Liu
tiến hành phân tích hệ thống các nghiên cứu về dịch tễ học tăng acid uric máu
tại Trung Quốc cho thấy tỉ lệ tăng acid uric máu ở nam giới là 21,6% và ở nữ
giới là 8,6%. Nguy cơ mắc bệnh bắt đầu ở tuổi 30 đối với nam và 50 đối với
nữ. Do đó, cần có những can thiệp để thay đổi các yếu tố nguy cơ trước lứa

một nghiên cứu tại Mỹ cho biết nguy cơ bị tăng 2,1 lần ở nhóm có nồng độ
acid uric từ 6-8,99mg/dl so với nhóm
từ nhiều thế kỷ nhưng bằng chứng về mối liên quan này mới được phân tích
và khẳng định chắc chắc qua các nghiên cứu trong thời gian gần đây [32],
[33], [34]. Chế độ ăn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển tăng hay
giảm acid uric máu. Nghiên cứu thuần tập về chế độ ăn uống theo dõi trên
47.150 nam giới không có tiền sử Gout trong khoảng thời gian 12 năm, thực
hiện đánh giá khẩu phần ăn bằng bảng câu hỏi tần suất bán định lượng, tác giả
Choi HK cho thấy nguy cơ mắc tăng 1,4 lần ở người ăn thịt nhiều, tăng 1,51
ở nhóm ăn hải sản nhiều. Tần suất sử dụng sữa thường xuyên làm giảm nguy
cơ mắc bệnh (RR=0,56). Mức độ tiêu thụ các loại rau giàu purin và tổng
lượng protein trong khẩu phần không liên quan đến tình trạng tăng nguy cơ
mắc bệnh [35].
Nghiên cứu của Villegas thực hiện trên 3978 nam giới 40-74 tuổi tại
Thượng Hải, Trung Quốc cũng cho kết quả nghiên cứu tương tự [36]. Tác giả


10
cho biết chế độ ăn có vai trò quan trọng đối với tình trạng tăng acid uric
nhưng cần xem xét cụ thể đến nguồn gốc của purin trong thực phẩm. Tổng
lượng tiêu thụ protein không liên quan đến tăng acid uric máu nhưng có mối
tương quan thuận giữa số lượng protein động vật và nồng độ acid uric máu.
Tác giả cũng đã nhận thấy không có mối liên quan giữa tiêu thụ rau quả giàu
purin với tỉ lệ tăng acid uric máu và có mối tương quan nghịch giữa việc tiêu
thụ các sản phẩm từ đậu nành và tăng acid uric máu [36]. Kết quả nghiên cứu
này một lần nữa khẳng định hàm lượng đạm thực vật không liên quan đến
tình trạng tăng acid uric máu. Đây là một kết luận khá quan trọng giúp ích cho
quá trình tư vấn chế độ ăn cho đối tượng tăng acid uric máu. Đậu nành và các
sản phẩm chế biến là một trong những thức ăn truyền thống của châu Á có giá
trị dinh dưỡng cao. Tuy nhiên, do đậu nành có hàm lượng protein cao nên
trước đây, nhiều chuyên gia y tế cho rằng sử dụng nhiều đậu nành sẽ làm tăng
acid uric và gia tăng nguy cơ mắc. Điều này dễ dẫn đến một tình trạng khẩu

chế bài tiết acid uric qua nước tiểu. Do vậy, nhiều nghiên cứu đã tìm thấy
những bằng chứng mạnh mẽ cho biết mức độ tiêu thụ rượu, bia có liên quan
chặt chẽ đến tình trạng tăng acid uric máu từ đó dẫn đến nguy cơ mắc . Tác
giả Choi HK cho biết nguy cơ mắc bệnh tỉ lệ thuận với mức độ sử dụng rượu,
bia. So với nhóm không uống rượu, nguy cơ mắc ở nam giới tăng 1,32 lần
khi uống ở mưc 10-=50g ethanol/ngày. Tuy nhiên, việc sử dụng rượu vang
không làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tiêu thụ nước ngọt nhiều cũng là một
trong những yếu tố nguy cơ của bệnh [34]. Nghiên cứu của Williams cũng
cho biết nguy cơ mắc bệnh bắt đầu tăng dần ở nhóm uống từ 10g
ethanol/ngày, nguy cơ mắc bệnh tăng lên 93% ở nhóm sử dụng trên 15g
ethanol/ngày so với nhóm không sử dụng [37].


12
Vitamin C có vai trò quan trọng trong quá trình chống oxy hóa và loại
trừ các gốc tự do trong cơ thể. Vitamin C có vai trò ức chế tái cạnh tranh với
acid uric ở ống lượn gần, Viamin C làm tăng mức lọc cầu thận. Tác giả Gao
cho biết có mối liên quan khá chặt chẽ giữa khẩu phần vitamin C hàng ngày
với nguy cơ tăng acid uric máu. Nghiên cứu trên nhóm đối tượng tăng acid
uric máu đơn thuần không kèm theo tăng huyết áp và béo phì, tác giả cho thấy
có mối liên quan nghịch đảo giữa lượng vitamin C trong khẩu phần với nồng
độ acid uric máu [39]. Đánh giá về mức độ tiêu thụ cà phê với nguy cơ mắc ở
phụ nữ, tác giả Choi HK nghiên cứu trên 89.433 đối tượng đã nhận thấy có
mối quan hệ nghịch đảo giữa lượng cà phê tiêu thụ với tăng acid uric máu
[40]. Tác giả Wu cũng cho biết mức độ sử dụng rượu, bia, tiêu thụ hải sản,
thói quen sử dụng nước luộc thịt là những yếu tố nguy cơ tăng acid uric liên
quan ăn uống. Còn việc sử dụng nhiều rau quả tươi, uống nước chè là những
yếu tố bảo vệ làm giảm nguy cơ mắc bệnh [23]. Như vậy, với chế độ ăn có
nhiều chất xơ sẽ làm giảm nguy cơ tăng acid uric.

tỉ lệ tăng acid uric của nam cao gấp 4 lần so với nữ thì sau tuổi 65 khoảng
cách này thu hẹp dần.
Tác giả Bùi Đức Thắng cho biết tỉ lệ tăng acid uric ở người cao tuổi
giữa 2 giới không có sự khác biệt đáng kể [30]. Nhưng tác giả Phan Văn Hợp
lại chỉ ra rằng tỉ lệ tăng acid uric máu ở nam giới cao gấp 3 lần so với nữ [29].
Nhiều bằng chứng cho thấy vai trò quan trọng của estrogen và liệu pháp
hormon thay thế đối với nguy cơ tăng acid uric máu ở phụ nữ [5], [44]. Các
nghiên cứu đã khẳng định estrogen có vai trò làm giảm nguy cơ tăng acid uric
máu và bênh gút ở nữ giới [5]. Nghiên cứu thuần tập trên 92.535 phụ nữ bình
thường trong thời gian 16 năm để đánh giá mối liên hệ giữa thời kỳ tiền mãn
kinh, mãn kinh và sử dụng liệu pháp hormon thay thế với nguy cơ tăng acid
uric máu , kết quả chỉ ra tỉ lệ mắc tăng từ 0,6/1000 người-năm ở phụ nữ dưới


14
45 lên đến 2,5 ở phụ nữ từ 75 tuổi trở lên, phụ nữ mãn kinh có nguy cơ mắc
bệnh cao hơn so với phụ nữ tiền mãn kinh 1,26 lần. Những đối tượng sử dụng
hormon thay thế làm giảm nguy cơ tăng acid uric (RR=0,82). Đối tượng mãn
kinh sớm dưới 45 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 1,62 lần so với nhóm
mãn kinh ở lứa tuổi 50-54 tuổi [45].
* Chủng tộc
Một số nghiên cứu dịch tễ học chứng tỏ có sự khác biệt nồng độ acid
uric giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Nồng độ này đặc biệt cao trong quẩn
thể dân cư là thổ dân Maori ở New Zealand, người Úc bản địa hoặc người Mỹ
gốc Phi [17], [23]. Có thể yếu tố chủng tộc có liên quan đến một số gen quy
định quá trình chuyển hóa, thải trừ và tái hấp thu acid uric.
1.2.3.3. Mối liên quan giữa tăng acid uric máu và một số bệnh mạn tính
không lây nhiễm
* Tăng acid uric máu và tăng huyết áp
Xác định mối liên quan giữa tăng acid uric máu và tăng huyết áp đã

máu thể hiện mạnh mẽ hơn ở nhóm tuổi trẻ [50].
Nhiều tác giả trong nước cũng đã đi sâu tìm hiểu mối liên quan giữa
tăng acid uric máu và tăng huyết áp. Tác giả Châu Ngọc Hoa cho biết tỉ lệ
tăng acid uric máu ở người tăng huyết áp cao hơn rất nhiều so với nhóm bình
thường (tỉ lệ tương ứng là 63% so với 18%) [26]. Kết quả nghiên cứu của một
số tác giả khác cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Lương Trung
Hiếu, Hoàng Quốc Hòa [51], [52].
* Tăng acid uric máu và các bệnh lý tim mạch
Một số thực nghiệm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và nghiên cứu
trên động vật cho thấy acid uric là một hợp chất có hoạt tính sinh học có thể


16
làm tăng trung gian gây viêm dẫn đến tổn thương mạch máu nhưng nó cũng
có tác dụng như một chất chống oxy hóa mạnh có khả năng bảo vệ. Vì vậy,
nồng độ acid uric máu có liên quan đến các bệnh lý tim mạch [12],[53].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới trong thời gian qua đã khẳng định tăng
acid uric máu có tác động và là yếu tố nguy cơ cho bệnh tim mạch và yếu tố
nguy cơ độc lập của tử vong do tim mạch [20], [54], [55]. Dữ liệu của
NHANES cho thấy có mối tương quan mạnh và độc lập giữa nồng độ acid uric
với tử vong tim mạch. Mối tương quan mạnh hơn ở nữ so với nam, người da
đen hơn người da trắng [14]. Nhiều nghiên cứu khác cũng đưa ra bằng chứng
về mối tương quan mạnh mẽ giữa nồng độ acid uric và các bệnh lý tim mạch
[56], [57].
Một vấn đề đặt ra là tại sao acid uric không luôn luôn là yếu tố nguy cơ
độc lập tim mạch qua các nghiên cứu? Điều này có thể giải thích nếu acid uric
gây ra bệnh tim mạch là do hậu quả của tăng huyết áp và suy thận thì acid uric
không được xem là độc lập với tăng huyết áp và suy thận khi đánh giá yếu tố
nguy cơ tim mạch. Một nguyên nhân khác có thể giải thích sự khác biệt về
các kết quả nghiên cứu là do đặc tính chống oxy hóa của acid uric. Điều này

qua một số nghiên cứu [62], [63], [64]. Người ta nhận thấy có mối quan hệ
nghịch đảo giữa sự đề kháng insulin và sự giảm thanh thải acid uric qua thận.
Đánh giá tác động của nồng độ acid uric máu đối với nguy cơ phát triển
bệnh đái tháo đường type 2, tác giả Bhole đã dùng dữ liệu của Framingham
Heart với hai thế hệ nghiên cứu và sử dụng mô hình Cox để ước tính nguy cơ
tương đối (RR) của bệnh đái tháo đường. Sau khi đã điều chỉnh về tuổi, giới
tính, hoạt động thể lực, uống rượu, hút thuốc lá, tăng huyết áp, chỉ số khối
lượng cơ thể, mức glucose trong máu, cholesterol, creatinine và các chất béo
trung tính, kết quả đã cung cấp bằng chứng cho thấy có mối tương quan thuận
chiều giữa nồng độ acid uric máu và nguy cơ mắc đái tháo đường nhất là ở
nhóm tuổi trẻ [65]. Nghiên cứu của Miao tại các vùng ven biển Quảng Đông
Trung Quốc cũng cho thấy có mối liên quan khá chặt chẽ giữa tăng acid uric


18
máu và đái tháo đường type 2. Những người tăng acid uric máu có nguy cơ
cao mắc bệnh đái tháo đường hơn những người có nồng độ acid uric bình
thường [17].
* Tăng acid uric máu và thừa cân, béo phì
Nhiều nghiên cứu đều cho thấy có sự liên quan rõ rệt giữa trọng lượng
cơ thể và nồng độ acid uric máu. Béo phì làm tăng tổng hợp và giảm thải trừ
acid uric. Nghiên cứu của Miao cho biết tăng acid uric có liên quan chặt chẽ
tới sự phát triển của nền kinh tế, được thể hiện bằng sự thay đổi chế độ ăn
uống và lối sống tĩnh tại. Do đó, thừa cân-béo phì có liên quan đến tình trạng
tăng acid uric máu [17].
* Tăng acid uric và rối loạn lipid máu
Sự kết hợp giữa tăng acid uric máu và tăng triglycerid máu đã được xác
định chắc chắn. Nhiều nghiên cứu cho thấy có đến 80% người tăng triglycerid có
tăng acid uric và có tới 50-70% bệnh nhân gout có triglycerid tăng. Tác giả Yu
tiến hành nghiên cứu trên 7403 đối tượng có độ tuổi từ 20 trở lên tại vùng Phật

Tác giả Hoàng Trung Hào nghiên cứu nồng độ acid uric máu trên bệnh
nhân suy thận mạn tính cũng cho những kết quả tương tự [68]. Tác giả cho
biết tỉ lệ bệnh nhân suy thận có tăng acid uric máu là 72,5%, acid uric máu
tăng ngay từ giai đoạn sớm của suy thận và nồng độ tăng dần theo mức độ suy
thận. Nhóm bệnh nhân suy thận kèm theo hội chứng thận hư có nồng độ acid
uric máu thấp hơn so với nhóm suy thận khác.
* Tăng acid uric máu và hội chứng chuyển hóa
Hội chứng chuyển hóa là một tập hợp những rối loạn về chuyển hóa
làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và đái tháo đường. Những rối
loạn này bao gồm: rối loạn lipid máu, béo bụng, yếu tố huyết áp, rối loạn
glucose máu khi đói. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hội chứng chuyển hóa
có liên quan chặt chẽ với bệnh béo phì và là dấu hiệu cảnh báo một số bệnh
không lây nhiễm [69], [70]. Khi đánh giá sự kết hợp giữa nồng độ acid uric
máu với hội chứng chuyển hóa trong một nghiên cứu cắt ngang trên cộng đồng
người Hàn Quốc tuổi từ 38 đến 87, kết quả chỉ ra rằng số lượng mắc các yếu tố
của hội chứng chuyển hóa cũng tăng dần theo nồng độ acid uric máu [70].


20

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
-

Là cán bộ, nhân viên trường Đại học Y Hà Nội được khám, chẩn đoán và
có đầy đủ kết quả xét nghiệm cận lâm sàng tại bệnh viện đại học Y Hà
Nội vào đợt khám sức khỏe tháng 9, tháng 10 năm 2014.

-

[3], p = 26,2%
→ Cỡ mẫu n ≈ 297 người
Làm tròn số lượng là 300 đối tượng nghiên cứu.
2.3.3. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Chúng tôi chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống 300 đối tượng trong số 576
cán bộ nhân viên được khám, chẩn đoán và có đầy đủ kết quả xét nghiệm cận
lâm sàng tại bệnh viện đại học Y Hà Nội vào đợt khám sức khỏe tháng 9,
tháng 10 năm 2014. Các đối tượng đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn
trong nghiên cứu.
- Văn phòng công đoàn trường đại học Y Hà Nội cung cấp danh sách
602 cán bộ nhân viên được khám, chẩn đoán và có đầy đủ kết quả xét nghiệm
cận lâm sàng trong đợt khám sức khỏe tháng 9, tháng 10 năm 2014. Từ đó,
chúng tôi xây dựng khung mẫu.
- Tính khoảng cách mẫu: k = = 2
- Chọn đối tượng đầu tiên trong danh sách có số thứ tự là 1.
- Người thứ 2 được chọn sẽ có số thứ tự là 3, người thứ ba sẽ có số thứ
tự là 5 và cứ chọn như vậy cho đến hết khung mẫu. Nghĩa là cứ 2 người lấy
một theo thứ tự danh sách sao cho đủ 300 đối tượng nghiên cứu.
2.3.4. Các biến số nghiên cứu
- Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
+ Giới tính: Nam và Nữ
+

Tuổi: tuổi tính theo dương lịch


22
+ Nơi công tác: Bộ môn Khoa học cơ bản, Lâm sàng, Y học cơ sở, Y học
dự phòng và y tế công cộng, Phòng ban.
- Xác định tỉ lệ tăng acid uric máu


BMI

Thiếu năng lượng trường diễn độ 3

< 16

Thiếu năng lượng trường diễn độ 2

16,0- 16.9

Thiếu năng lượng trường diễn độ 1

17,0- 18,4

Bình thường

18,5 - 24,9

Thừa cân độ 1

25,0 - 29,9

Thừa cân độ 2

30,0 - 39,9

Thừa cân độ 3

≥ 40

hỏi số lần sử dụng thực phẩm trong tuần qua:
- Thường xuyên: sử dụng thực phẩm với tần suất từ 3 lần/ tuần trở lên
- Không thường xuyên: sử dụng thực phẩm với tần suất dưới 3 lần/ tuần
2.4.5. Hội chứng chuyển hóa [73]
Hội chứng chuyển hóa được xác định theo tiêu chuẩn của NCEPATP II
dành cho người châu Á khi có từ 3 yếu tố trở lên trong 5 yếu tố sau:
- Rối loạn glucose máu khi đói (Glucose máu ≥ 6,1 mmol/l).
-

Béo bụng (vòng eo ≥ 90 đối với nam và ≥ 80 cm đối với nữ).

-

Triglycerid máu cao (≥ 1,7 mmol/l).

-

HDL-C thấp (< 1mmol/l ở nam và < 1,3 mmol/l ở nữ).

-

Huyết áp tối đa ≥ 130 mmHg hoặc huyết áp tối thiểu ≥

85 mmHg

hoặc đang điều trị tăng huyết áp.
2.4.6. Tăng huyết áp
Năm 2007, Hội tim mạch Việt Nam đã công bố cách phân loại tăng
huyết áp như sau



2.4.7. Hoạt động thể lực
Dựa trên tính chất hoạt động thường ngày của đối tượng cùng với mức
độ tham gia hoạt động thể dục thể thao để phân nhóm đối tượng thành các
mức độ hoạt động thể lực: Nhẹ, trung bình, nặng [75]
Hoạt động nhẹ
(< 3,5kcal/phút)
- Đi dạo < 5km/giờ
- Đi mua sắm.

- Đạp xe < 8 km/giờ

Hoạt động trung bình
(3,5-7 kcal/phút)
- Đi bộ nhịp nhanh hoặc
trung bình 5-7 km/giờ.
- Đi học, đi chợ.
- Trượt patin, nhịp thong
thả.
- Đạp xe 8-14 km/giờ,
đường địa hình.

- Tập kéo dãn, làm nóng - Tập thể lực, tập nhẹ.

chậm.
- Nhảy trong phòng,
khiêu vũ, rất chậm.

- Bóng bàn: giải trí
- Bóng chuyền: giải trí



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status