Văn hóa kinh doanh trên thế giới và vấn đề xây dựng văn hóa kinh doanh ở việt nam - Pdf 64

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
VĂN HÓA KINH DOANH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện: Kiều Thị Bích Hương
Lớp: A2- CN9
Hà Nội- 2003
LỜI CẢM ƠN
Quả là không thể nói hết được về Văn hóa kinh doanh- một phạm trù
quá rộng lớn và tinh tế. Nghiên cứu chuyên sâu, tỉ mỉ về Văn hóa kinh
doanh đã khó, với một sinh viên còn chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế
trong môi trường kinh doanh lại càng khó hơn. Để đi trọn vấn đề (trong
khả năng có thể), hoàn thành cuốn khóa luận hôm nay, em phải nhờ vào
sự giúp đỡ của nhiều người. Trước hết, em xin chân thành cảm ơn thày
Phạm Duy Liên- Phó Chủ nhiệm khoa Kinh tế Ngoại thương- người đã
hướng dẫn và chỉ bảo em cặn kẽ trong suốt quá trình làm khóa luận. Sự
đào tạo, dạy dỗ của thày cô giáo trong khoa Kinh tế ngoại thương-
trường ĐH Ngoại thương hơn 3 năm qua đã cung cấp nhiều kiến thức
bổ ích cho em khi nghiên cứu và trình bày nội dung khóa luận tốt
nghiệp. Đồng thời em xin được cảm ơn nhà văn Lê Lựu đã cung cấp
nhiều thông tin quý báu để em áp dụng vào bản khóa luận này.
Mặc dù khóa luận đã hoàn thành nhưng cũng không tránh khỏi những
thiếu xót, hạn chế trong nội dung và cách trình bày. Rất mong nhận
được sự nhận xét, góp ý của thày cô để em có thêm những kinh nghiệm
cho công tác.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn!
Sinh viên Kiều Thị Bích Hương
2

triển, yếu tố văn hóa càng được đề cao. Là một đề tài rộng với những
khái niệm đang dạng (đôi khi khó nắm bắt) nhưng càng đi sâu vào tìm
hiểu văn hóa kinh doanh, chúng ta càng rút ra được nhiều giá trị của
cuộc sống từ những điều tưởng như đơn giản nhất.
Xuất phát từ tầm quan trọng của Văn hoá kinh doanh như trên em đã lựa
chọn đề tài Văn hoá kinh doanh trên thế giới và vấn đề xây dựng văn
hoá kinh doanh ở Việt Nam làm khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở
đầu và kết luận khoá luận, khoá luận tốt nghiệp được chia thành các
chương:
Chương I: Lý luận về văn hoá kinh doanh
Chương II: Thực trạng xây dựng và phát triển văn hoá kinh doanh ở
Việt Nam trong những năm qua.
Chương III: Các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá
kinh doanh mang bản sắc dân tộc Việt Nam trong thời gian tới.
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy
nạp; xuất phát từ những hiện tượng, sự kiện cụ thể để tổng quát tình hình
và đi đến kết luận chung, rút ra các bài học cũng như đề xuất biện pháp
giải quyết.
4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1. Khái niệm và đặc điểm của văn hóa kinh doanh
a. Thế nào là văn hóa?
Cho đến hôm nay, những định nghĩ về văn hóa có giá trị nhất vẫn chưa
làm thỏa mãn giới nghiên cứu. Vô vàn những định nghĩa khác nhau về
văn hóa, thậm chí ngay trong một định nghĩa về văn hóa cũng phụ thuộc
vào văn hóa. Tuy nhiên khái niệm văn hóa dù được tiếp cận từ góc độ
nào cũng đều làm lộ ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp những đặc trưng
về con người và về đời sống của con người. Từ góc tiếp cận này, ta có
thể hiểu văn hóa là một khía cạnh của quan hệ giữa con người với thế

phẩm hoặc dịch vụ giữa cá nhân với cá nhân, tập thể với cá nhân và tập
thể với tập thể mà trong đó yếu tố địa lý, thiên nhiên, gia đình, quốc gia,
dân tộc đóng vai trò quyết định.
Gần đây, nhiều học giả kinh tế và xã hội, tiên khởi là nhà xã hội học
người Pháp Pierre Bourdieu cho rằng, muốn hiểu văn hóa như một
nhân tố trong đời sống kinh tế, và nhất là muốn đánh giá vai trò của
nó trong tiến trình phát triển, thì nên nhìn nó như một loại vốn-
tương tự như ba loại vốn thường biết khác (vốn vật thể, như máy
móc, thiết bị; vốn con người, như kỹ năng, kiến thức; vốn thiên
nhiên, gồm những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi trường
sinh thái).
Thêm một bước, có thể phân biệt 2 dạng vốn văn hóa: vật thể và phi
vật thể. Vốn văn hóa vật thể gồm những công trình kiến trúc, đền đài
6
cung miếu, di tích lịch sử, những địa điểm có ý nghĩa văn hóa. Loại
vốn này cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc đi
vào sản xuất những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hóa cũng
như ngoại văn hóa. Dạng kia, vốn văn hóa phi vật thể, là những tập
quán, phong tục, tín ngưỡng và các giá trị khác của xã hội. Loại vốn
văn hóa này- cùng những nghệ phẩm công cộng như văn chương và
âm nhạc- là một loại dây, một thứ keo gắn kết cộng đồng. Nó cũng
cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc dùng trong
sản xuất những sản phẩm văn hóa trong tương lai. Từ những nhận
xét trên, vài nét chính về liên hệ giữa văn hóa, kinh tế và phát triển
dần hiện rõ.
Một là, muốn hội nhập vốn xã hội vào phân tích kinh tế ta phải xác
định liên hệ giữa giá trị văn hóa và giá trị kinh tế. Lấy ví dụ vốn văn
hóa vật thể, chẳng hạn như một ngôi nhà có tính di tích lịch sử. Ngôi
nhà ấy có giá trị kinh tế như một kiến trúc (ngụ cư hoặc thương
mại), biệt lập với giá trị văn hóa. Song giá trị kinh tế ấy có thể tăng

nhất để có được cảm tình của khách hàng. Và để có được sự đồng cảm,
trước hết phải hiểu được tâm sinh lý, văn hóa của đối phương. Theo
quan điểm của các nhà tâm lý học thì những người có thái độ và quan
niệm về giá trị càng giống nhau thì sức hút giữa hai người càng lớn.
Trong hoạt động kinh doanh, đó là yếu tố rất cần thiết để chinh phục
khách hàng. Việc đưa hệ thống quản lý chất lượng ISO vào các doanh
nghiệp VN là rất sáng tạo, vì bản chất của ISO cũng là quá trình tái tạo.
Có những doanh nghiệp thành công, có doanh nghiệp không thành công.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp chạy theo ISO không vì thực chất mà là
muốn có cái danh để bán hàng. Thực tế ISO thì có danh nhưng không thể
8
không thực chất. Các doanh nghiệp có thể tham khảo ISO để tái tạo,
nhưng ISO là một quá trình chung, và mỗi công ty thì phải có một quá
trình riêng để áp dụng tùy đặc điểm văn hóa kinh doanh của mỗi công ty.
Vậy văn hóa kinh doanh là yếu tố vô cùng quan trọng.
Thử nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế ở một số nước châu á và Mỹ
Latinh gần đây. Yuthavong- Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học công nghệ
Thái Lan, phát biểu: “Có hai nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng
kinh tế bắt đầu từ Thái Lan năm 1997 sau đó lan sang các nước Đông
Nam Á và rộng hơn. Nguyên nhân trực tiếp là nợ nước ngoài quá nhiều,
đầu tư không cân đối vào các ngành phi sản xuất, đặt tỷ giá đồng baht
quá cao, thiếu rành mạch trong hệ thống ngân hàng và kinh doanh... làm
cho các nhà đầu tư mất lòng tin. Cho dù trầm trọng đến mức nào, các
nguyên nhân này cũng chỉ mới châm ngòi. Nguyên nhân cốt lõi dẫn đến
cuộc sụp đổ là thiếu tri thức và trình độ lành nghề để có thể cạnh tranh
và bảo đảm phát triển bền vững. Cái lợi thế truyền thống của Thái Lan
về giá trị nhân công và nguyên liệu đã hoàn toàn mất hiệu lực và tan biến
ngay trong cơn sốc kinh tế đó”. Thái Lan được liệt vào danh sách 49
nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao nhất thế giới bên cạnh các cây
đại thụ ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật và các nền kinh tế mới trỗi dậy như

trách nhiệm lo toan tất cả công việc gia đình... Solo đã xây dựng những
căn hộ nhỏ, thiết kế đẹp, trang nhã, tiện nghi, hợp với túi tiền và nhu
cầu của giới trẻ độc thân, những gia đình trẻ ít người. Cụ thể người ta
cho xây những căn hộ vừa và nhỏ từ 18m
2
đến 80m
2
để thu hút khách
hàng trẻ tuổi. Những căn hộ này đáp ứng các tiêu chí: nhỏ nhưng đẹp,
tiện nghi, có nhiều phòng, đủ ánh sáng và giá cả phải chăng phù hợp
với các hộ độc thân và những gia đình gồm 3 thành viên.
10
Vì sao Singapore- một đất nước vô cùng nhỏ bé- lại có sự phát triển đáng
kinh ngạc như vậy? Hãy nhìn lại chính sách của ông Lý Quang Diệu,
nhân vật của thế kỷ 20. Mặc dù về mặt cá nhân, ông Lý Quang Diệu có
vẻ không cảm tình lắm với Mỹ nhưng ông ưu tiên cho đầu tư của Mỹ vì
thường đi kèm công nghệ cao, so với đầu tư vào châu Á, thường mang
kỹ nghệ thấp. Nếu ví nước Mỹ phát triển nhờ biết bước lên vai khổng lồ
nhân loại thì cũng có thể ví Singapore phát triển nhờ biết bám thắt lưng
Mỹ- một đất nước nhỏ hẹp, dân số ít như Singapore, bắt buộc con người
phải có cách thức suy nghĩ, hành động khôn ngoan “núp bóng lớn mà
tiến”, tính cách ấy cũng chính là một thứ văn hóa kinh doanh áp dụng
trên thương trường.
Những gì thực sự thuộc về truyền thống thì chẳng thể nào biến mất, vì nó
lắng đọng, bám chặt ở tầng sâu nhất trong tâm khảm, trong cách tư duy
của mỗi người. Dân tộc Nhật có nền văn hóa lâu đời nên họ không sợ
đánh mất truyền thống khi bắt chước phương Tây một cách toàn diện, kể
cả các chi tiết nhỏ nhặt. Chiến lược bắt chước để tự vệ giúp họ làm nên
nhiều chuyện thần kỳ. Người Nhật tự hào không một chút mặc cảm về
tiến trình Âu Mỹ hóa nhanh kỳ diệu của mình, họ rất muốn biết người

Nhật vẫn được coi là một trong 8 nền văn minh lớn của thế giới. Ngày
nay, văn hóa Nhật đang tác động mạnh mẽ tới cả thế giới qua các sáng
tạo như karaoke, truyện tranh Doremon, trò chơi điện tử, máy nghe băng
Walkman, đồng hồ Quartz, máy ảnh kỹ thuật số...
3.Sự khác biệt về văn hóa kinh doanh của các châu lục
a.Nhân tố văn hóa trong kinh doanh ở phương Đông:
Khác với phương Tây, văn hóa phương Đông có nguồn gốc nông nghiệp,
đặc trưng là: trong ứng xử với môi trường tự nhiên thì nghề trồng trọt
buộc người dân phải định cư chờ cây cối lớn lên, ra hoa, kết quả và thu
hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cư dân có ý thức
tôn trọng thiên nhiên và có ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Do
vậy các thành tựu về chinh phục thiên nhiên của người phương Đông
12
kém hơn phương Tây. Trong tổ chức cộng đồng, người phương Đông ưa
sống theo nguyên tắc trọng tình nghĩa. Lối sống trọng tình cảm đó dần
dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, tâm lý coi trọng tập thể (đối lập với
phương Tây)- mang đậm tính nhân văn. ở phương Đông, Nhật Bản là
nước đi tiên phong trong việc phát huy nhân tố văn hóa để phát triển
kinh tế: “Sự thần kỳ kinh tế sau thế chiến thứ II chính là đỉnh cao vinh
quang trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Nhật”. Đây là ví dụ điển
hình cho sự thành công kỳ diệu trong lĩnh vực kinh doanh kết hợp với
những nhân tố văn hóa dân tộc, cũng như với tư cách là một xã hội phát
triển.
Văn hóa Nhật có 4 đặc trưng:
- Người Nhật có phương pháp suy nghĩ thiên về tư tưởng thực tế và kinh
nghiệm chủ nghĩa. Nét tiêu biểu cho tư tưởng Nhật là tư tưởng chính trị
và lý luận có tính chất thực tiễn.
- Về mặt kết cấu tinh thần, tâm linh người Nhật dựa trên cơ sở một tôn
giáo khởi nguyên có tính chất “bài siêu việt”, đó là một tôn giáo không
có thần thánh cao siêu, độc nhất như đức Phật trong Phật giáo hay trong

hợp tác, tìm tòi phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật...
Tuy nhiên, nước Nhật đã và đang bước qua những năm cuối thế kỷ 20 và
đầu thế kỷ 21 trong thời kỳ suy thoái. Nhận xét riêng về tinh thần của
lớp trẻ, ông Masahiko Ishizuka- Tổng GĐ Trung tâm Báo chí quốc tế
Nhật Bản cho rằng họ đang có phần bi quan về tương lai của đất nước, tỷ
lệ thất nghiệp cao nhưng thanh niên lại thiếu kiên nhẫn với những công
việc đơn điệu và không có cơ hội thăng tiến. Một cơ cấu kinh tế đang áp
dụng đã có vẻ lỗi thời, phù hợp cho những trung niên- cần việc làm ổn
định để nghĩ đến khoản tiền về hưu hơn là sự tích cực sáng tạo, đổi mới
và phiêu lưu. Theo ông, vấn đề bây giờ là không nên chỉ nhìn vào tệ nạn
xã hội cách sống để phê phán giới trẻ mà cần có một cơ chế kinh tế- xã
hội thích ứng để nhận thức và khai thác đúng tiềm năng của thanh niên.
14
Nội các của Thủ tướng Koizumi mới hình thành trong thế kỷ 21 đang
phải đáp ứng đòi hỏi của người dân về một chính sách ngoại giao và kinh
tế quyết đoán, hiệu quả hơn. Giáo sư Osamu Nariai (Trường ĐH
Reitaku) người coi ASEAN như ngôi nhà thứ 2 của mình trong buổi hội
thảo về kinh tế Nhật đã dùng hình ảnh núi Phú Sĩ để minh họa biểu đồ
các chỉ số tăng- giảm và nền kinh tế bong bóng không thành công của
Nhật trong thập niên 90. Cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á năm 1997 giúp
người Nhật nhận ra mô hình của mình đang có vấn đề. Thành công ở
thập kỷ 80 không thể là hình mẫu ưu việt và kéo dài mãi trước một thế
giới đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Cái gọi là “Japan as number
one” (Nhật Bản số một) thực tế đang bị lung lay trong thị trường quốc tế
cạnh tranh khốc liệt. Tự hào nhưng không nên ảo tưởng. Có một cái tên
không thể không nhắc tới trong các cuộc hội thảo về kinh tế, chính trị
Nhật: Trung Quốc. Sản phẩm Nhật chất lượng số một nhưng muốn mua
đồ ít tiền, dạo quanh các cửa hàng 100 yen hàng rẻ chủ yếu nhập từ
Trung Quốc, Hàn Quốc. Sự phát triển và vươn mạnh của nền kinh tế
Trung Quốc, Hàn Quốc, khu vực ASEAN... là cơ hội thuận lợi để hợp

sáng tạo ra máy vi tính, Internet... nhưng các sản phẩm phần mềm của
Ấn Độ hiện giờ khiến nước Mỹ và Tây Âu cũng phải kính nể với khả
năng sản xuất phần mềm xuất khẩu tại Bangalore, nơi được coi là
“Thung lũng Sillicon của Ấn Độ”. Và đất nước này còn tiến xa hơn nữa
bởi nguồn nhân lực dồi dào, đôi bàn tay khéo léo và bộ óc tinh nhanh và
có khả năng tiếp thu công nghệ cao: công nghệ thông tin, nghiên cứu vũ
trụ, năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học. Đài Loan cũng phát triển
mạnh nhờ đặc điểm này còn Thái Lan- đất nước nổi tiếng vì sản phẩm
rẻ (nhân công, nguyên liệu rẻ), du lịch vừa kết hợp đặc trưng văn hóa
dân tộc vừa thuận tiện kiểu Âu châu (cần gì có nấy) đã có những bước
tiến nhảy vọt... Những điển hình trên cũng là minh họa sống động cho
16
cách biết phát huy đặc trưng văn hóa phương Đông trong sự phát triển
hôm nay.
b. Nhân tố văn hóa trong sản xuất kinh doanh ở phương Tây
Lịch sử đã hình thành 2 vùng văn hóa lớn là phương Tây và phương
Đông: phương Tây là khu vực Tây- Bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy
Uran), phương Đông là khu vực Đông- Nam gồm châu á và châu
Phi. Hai vùng này có sự khác nhau về mọi mặt, từ môi trường sống cho
đến ngôn ngữ: trong khi ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn
ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập. Trong khi người phương Tây
coi trọng cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng. Môi
trường sống của người phương Đông là xứ nóng, mưa nhiều, với các
con sông lớn và đồng bằng trù phú. Còn phương Tây là xứ lạnh với
khí hậu khô không thích hợp cho thực vật sinh trưởng. Hai loại môi
trường này làm cư dân hai vùng phải sống bằng 2 nghề: phương
Đông sống bằng nghề trồng trọt là chủ yếu còn phương Tây lại
sống bằng nghề chăn nuôi. Do vậy làm xuất hiện hai loại hình văn
hóa: văn hóa gốc nông nghiệp đặc trưng phương Đông và văn hóa
gốc du mục đặc trưng cho phương Tây.

tán gẫu được xem là “ngựa bị nhốt trong lồng” vì nó không đua được.
Công việc là trên tất cả và làm như thế nào không cần biết, chỉ biết ở kết
quả. Hợp doanh với nhau cụ thể và có hiệu quả trước, sau đó mới có
quan hệ tình cảm- xã hội. Người tiêu thụ sẵn sàng lái xe đi xa cả hàng
trăm km chỉ để mua được vài món hàng sale rẻ vài cent. Chỉ có 2 món
hàng duy nhất trong hệ thống có mặc cả là xe ô tô và nhạc. Mọi món
hàng bán lẻ, đều cộng gộp thêm từ 6%- 8% trị giá, gọi là “thuế bán”,
thuế này chính quyền thu sau. ăn quán đều phải cho tiền tip từ 1 USD
đến 20% trị giá bữa ăn. Bí ẩn sau cùng và quyết định doanh thu, đó là
lobby- tức “vận động hành lang”. Để có được một thương vụ, để lọt vào
18
hệ bán lẻ, hay để có một cơ hội tốt, đều phải biết lobby, tức “đút lót
chiêu đãi”, những nơi thuận lợi là trường đua ngựa nổi tiếng Churchill
Down, khu sòng bài Las Vegas.
Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng, đó chính là lý do tại sao các
doanh nghiệp khi muốn làm ăn với người Mỹ đều tìm hiểu phong cách
kinh doanh của họ. Ví dụ bạn có thể kinh doanh với một người Mỹ mà
không cần một quan hệ cá nhân nào (điều này hoàn toàn ngược lại với
phong cách kinh doanh Việt Nam nói riêng, phương Đông nói chung).
Hãy bắt đầu công việc bằng cách nêu rõ mục đích của bạn. Hãy tập trung
vào mục tiêu thay vì rào trước đón sau, quanh co. Người Mỹ thường dứt
khoát trong việc từ chối hoặc nhận lời mời. Người ta nói người Mỹ thực
dụng vì trong bữa ăn họ cũng có thể ký được hợp đồng, nhiều bữa ăn
hoặc các buổi chiêu đãi tại nhà hàng là nhằm trao đổi kinh doanh với
khách hàng. Người Mỹ luôn tận dụng thời gian một cách triệt để. Trong
một cuộc họp, nếu có vấn đề không hiểu, bạn nên hỏi trực tiếp người
diễn thuyết, không nên quay sang người bên cạnh, người Mỹ có thể hiểu
lầm đó là một hành động thô lỗ, không quan tâm đến người nói. Nói
chung họ không chịu đựng được những lời thì thầm của người châu á.
Người Mỹ luôn sử dụng hợp đồng trong mọi tình huống. Với họ hợp

Lối nhận thức, tư duy Thiên về tổng hợp và biện chứng
(trong quan hệ); chủ quan, cảm tính
và kinh nghiệm
Tổ chức cộng đồng:
- Nguyên tắc
- Cách thức
- Trọng tình, trọng đức, trọng văn
- Linh hoạt, dân chủ trong tập thể
ứng xử với môi trường xã hội Dung hợp trong tiếp nhận, mềm
dẻo, hiếu hoà trong đối phó
[7. nguồn: Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá VN, NXB Giáo dục, 1997]
Cuộc sống nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúa nước cùng một lúc phụ
thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên, vì vậy, người nông dân
phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà sống. Do vậy trong văn hóa
Việt Nam, “tính cộng đồng” rất được đề cao, đó là nét đặc trưng số một
của làng xã Việt Nam. Cũng chính vì lẽ đó mà tổ chức cộng đồng của
21
Việt Nam có nét riêng biệt khác hẳn các nước khác. ở Việt Nam, con
người luôn hòa vào tập thể. Ngược lại, ở phương Tây, vai trò cá nhân
được coi trọng và khuyến khích. ở cấp độ làng xã, thì làng xã phương
Tây có tổ chức lỏng lẻo, rời rạc. Còn ở Việt Nam, làng xã có tổ chức
chặt chẽ, nó chính là môi trường sống, là tập thể cộng đồng chủ yếu
của người Việt Nam. Do nhu cầu ứng phó với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội, cả làng phải hợp sức mới có hiệu quả. Vì thế ở nông
thôn, người dân Việt Nam liên kết chặt chẽ với nhau tới mức “bán anh
em xa mua láng giềng gần”. Song cũng không phải vì thế người Việt
Nam xem nhẹ quan hệ huyết thống, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
Đối với nền văn hóa gốc nông nghiệp như Việt Nam thì làng xã là đơn vị
cơ sở quan trọng nhất. Làng xã là một hình thức tổ chức nông thôn theo
địa bàn cư trú, nguyên tắc cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị. Tính

giấy... Do tính cộng đồng, cả làng làm cùng một nghề tạo ra cùng một
loại sản phẩm hay buôn cùng một mặt hàng nên không có trao đổi nội
bộ. Mặt khác do tính tự trị, người dân trong làng sống tự túc khép kín, ít
có nhu cầu buôn bán giao lưu với bên ngoài nên đã khiến cho các “làng
công thương” này không thể trở thành đô thị được. Nông thôn Việt Nam
không những kìm hãm không cho làng xã phát triển thành đô thị mà còn
chi phối đô thị một cách quá đáng làm cho đô thị chịu ảnh hưởng và
mang đậm nét văn hóa nông thôn. Một sự ảnh hưởng “vô lý” nhất của
tính cộng đồng của nông thôn đối với đô thị là việc hình thành
“phường” ở đô thị. Phường là cộng đồng những người làm cùng một
nghề ở một một làng quê nhưng vì lý do khác nhau, họ rời bỏ làng quê
vào đô thị làm ăn, cùng sống trên một dãy phố. Mỗi phố thường sản
xuất, buôn bán một loại hàng hóa riêng. Nếu như áp dụng phương
pháp suy lý hình thức của phương Tây để giải thích hiện tượng này
23
thì sẽ khó mà có kết quả. Nhưng nếu nhìn nhận vấn đề theo “nhân tố
văn hóa” thì nguyên nhân của hiện tượng này dường như rất rõ ràng.
Đó vẫn là tính cộng đồng và tính tự trị. “Trước hết do tính cộng đồng
mà cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người bán: họ có điều
kiện tương tự, giúp đỡ nhau trong việc định giá, giữ giá, vay mượn
hàng, giới thiệu khách hàng cho nhau... Mặt khác do tính tự trị dẫn
đến nếp sống tự cấp tự túc, dân không có nhu cầu mua bán, cho nên
người buôn bán phải gian lận để kiếm sống..., về mặt này, cách tổ
chức theo phường tỏ ra có lợi cho người mua: tuy mất công đi xa để
mua hàng, nhưng bù vào đó người mua có điều kiện khảo giá, và vì
hàng nhiều nên ít có nguy cơ hàng giả” [7. Trần Ngọc Thêm, sách đã
dẫn, trang 118].
Đã kinh doanh thì phải có lời. Nhưng phương Tây thường đạt đồng lời
bằng cách cạnh tranh và cố gắng chiếm giữ lòng tin của khách
hàng . Còn ở Việt Nam truyền thống thì ngược lại, các thương nhân cấu

vốn này có khả năng đáp ứng nhu cầu lớn về vốn.
2. Điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt
Nam
Trong kinh tế thị trường hiện đại, toàn cầu hóa là thành tựu của văn
minh, văn hóa nhân loại, nó tự điều chỉnh, hoàn thiện và thúc đẩy nhân
loại tiến lên. Nó không chỉ thích hợp cho sáng tạo mà nó còn đòi hỏi sự
sáng tạo, và đó là động lực cho tiến bộ của khoa học công nghệ được vận
dụng vào thực tế. Nhà nước phải bổ sung cho kinh tế thị trường, khắc
phục hay giảm bớt những khuyết tật của nó để hướng tới một xã hội
phồn vinh hơn. nơi mà “của cải tuôn ra dào dạt”, công bằng và tự do, nơi
mà “sự tự do của mỗi một người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi
người” [3. trích từ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Karl Mark].
25

Trích đoạn Điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa kinh doan hở Việt Nam Tình hình sử dụng văn hóa kinh doanh trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc Định hướng phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2010:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status