Xây dựng thị trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại Việt Nam - Pdf 84


LỜI MỞ ĐẦU 
1.  Lý do chọn đề tài 
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới, 
kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc 
gia. Thế nhưng hiện  nay ngành cà phê  Việt  Nam vẫn tồn  tại  những phương thức 
kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế 
giới, nền sản xuất trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá 
này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn” 
cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng 
cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh 
nghiệp  kinh doanh  cà phê mà còn  của người nông dân thì việc xây dựng và phát 
triển thị trường giao sau cà phê là một trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu 
trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá. 
2.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nhân thô, tìm hiểu những 
tồn tại vướng mắc trong các khâu thuộc quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tìm ra 
những giải pháp dựa trên việc ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động 
biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân. 
3.  Phương pháp nghiên cứu 
Bằng phương pháp phân tích nghiên cứu, tổng hợp thông tin từ các tài liệu, 
sách báo, Internet có liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh cà phê, các công cụ 
phái sinh, để cho thấy tổn thất của ngành kinh doanh cà phê do ảnh hưởng của biến 
động giá và tác dụng của chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua hoạt 
động của thị trường giao sau. 
4.  Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 
Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam, 
đề  tài  đề  xuất  một  số  giải  pháp  khả  thi  trên nền  tảng  xây  dựng  và  phát  triển  thị 
trường giao sau để giảm ảnh hưởng xấu của biến động giá cà phê đến ngành này.

5.  Kết cấu của luận văn 

thuốc lá, ngô, đậu tương, cao su… thì cũng vẫn gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc 
đó giá thị trường đang xuống mà chưa bán hết được hàng. 
Bên cạnh đó còn có yếu tố do con người gây nên ­ đó là tình trạng sản xuất 
theo phong trào không tính đến giá cả sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới. 
Người nông dân đứng trước một mâu thuẫn là khi được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ, 
mất mùa thì giá cao nhưng lại không có hàng để bán. Giá đầu vào có xu hướng ngày

càng tăng trong khi giá nông sản đầu ra lên xuống thất thường. Ở trường hợp nào đi 
chăng nữa thì người nông dân luôn phải chịu thiệt thòi nhiều nhất. 
Đối với các doanh nghiệp chế biến, nhà xuất khẩu nông sản cũng sẽ gặp rủi 
ro tương tự như người nông dân nếu như họ thu  mua nông sản,  thu mua nguyên 
liệu, chế biến rồi lưu kho để tiêu  thụ hoặc xuất khẩu mà không có hợp đồng mua 
trước nguyên liệu với người cung cấp với giá ấn định (vì lúc mua giá có thể đang 
lên) cũng như không có hợp đồng bán trước với người tiêu thụ với giá ấn định (vì 
lúc bán giá có  thể  đang  xuống) thì khi giá  cả mặt hàng đó biến động, có  thể đẩy 
doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ nặng nề. Nhiều doanh nghiệp vừa ký hợp đồng 
bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng 
tương tự vừa bán dẫn đến thua lỗ. Những biến động không thể dự đoán trước của 
giá hàng hóa không những có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh mà còn ảnh 
hưởng đến thị phần, sức cạnh tranh và thậm chí là cả sự tồn tại của DN nếu điều đó 
xảy ra trong một thời gian dài. 
Như vậy cả nông dân, các thương lái, nhà chế biến và nhà xuất khẩu đều phải 
quan tâm đến việc quản lý rủi ro về giá đối với sản phẩm hàng hoá của mình để hạn 
chế thiệt hại đến mức tối đa và thu được lợi nhuận cao nhất. 
Chính  vì  vậy họ  cần  có  những  công  cụ phòng  ngừa  để đạt được mục  tiêu 
giảm thiểu  rủi  ro biến động  giá, một  trong những  công cụ hữu hiệu đã  được  các 
nước phát triển ứng dụng từ lâu đó là thực hiện giao dịch các hợp đồng giao sau trên 
sàn giao dịch giao sau. Chính nhờ có hợp đồng mua, bán trước với giá ấn định và 
giao hàng sau mà các bên có thể hạn chế đến mức tối đa rủi ro về biến động giá nhờ 
cơ chế hoán đổi và lựa chọn mà sàn sẽ trực tiếp điều hành. Điều này không thể có 

luôn muốn kiếm lợi nhuận dựa trên dự đoán chủ quan về giá cả thị trường, họ sẽ 
chốt lời hoặc chốt lỗ bằng cách chốt “vị thế” mua­bán trong thị trường, số tiền họ 
được hoặc mất sẽ không vượt quá giá trị kí quỹ phong tỏa. Trên thực tế, có 2% hợp 
đồng  đã  thỏa  thuận  được  chuyển  giao,  kết  thúc  “vị  thế”  mua­bán  luôn được  lựa 
chọn nhiều khi đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau.

Điều khác biệt tiếp theo là ở các đặc điểm của hợp đồng giao sau như: giá 
cả, trung  tâm  thanh toán bù trừ, nghiệp  vụ phòng ngừa  rủi ro biến động giá, đầu 
cơ… 
1.2.1.  Giá cả và các yếu tố quyết định 
Giá cả được quyết định bởi các điều kiện cung cầu, nếu trên thị trường có 
nhiều người mua hơn người bán, giá hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng, ngược lại 
trên thị trường mà người mua ít hơn người bán, giá  sẽ giảm. Vậy từ đâu mà hình 
thành nên các điều kiện cung cầu. 
Đó là do các lệnh đặt mua và bán khắp nơi trên thế giới đổ về và được tập 
trung tại sàn giao dịch hàng hóa. Những lệnh này khi được nhập vào sàn giao dịch 
thì sẽ trở thành các hợp đồng giao sau với những điều kiện ràng buộc nhất định giữa 
bên bán và bên mua. Đối với các hợp đồng khác thì giá cả được hình thành trên mặt 
bằng chung là thỏa thuận, nhưng giao dịch giao sau thì không, nó có nhiều hệ thống 
đấu giá được kết nối với bảng điện tử của sàn, những giá này được tự do đặt theo ý 
muốn chủ quan của nhà đầu tư và được chuyển đến sàn thông qua hệ thống máy 
tính kết nối. Sự đặt giá này được đặt trong một khoản thời gian quy định, đây được 
gọi là giờ giao dịch. Theo đó sẽ có nhiều loại lệnh khác nhau được đặt tùy vào tính 
chất đầu tư của cá nhân, ví dụ như lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng lỗ… 
Chính vì cơ chế đấu giá và cơ chế vận hành của thị trường giao sau đã làm 
giá cả hàng hóa phản ánh đúng giá trị thực của nó. Mặt khác nếu lạm dụng thì sẽ 
gây ảnh hưởng lớn đến hiện tượng đầu cơ giá, tất nhiên luật định sẽ tạo nhiều cản 
trở cho các hoạt động đầu cơ giá đó, nhưng tất cả vẫn phải đảm bảo mục đích cơ 
bản của sàn giao dịch giao sau là cung cấp cho các thành viên có thể tự do mua bán 
các loại hàng hóa khác nhau vì mục đích lợi nhuận. Đồng thời sàn này được hoạt 

bù trừ sẽ thực hiện cộng tiền lãi hoặc trừ tiền lỗ vào tài khoản kí quỹ. Hiện tượng 
này diễn ra cho đến ngày kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc trạng thái mua­bán. Nếu

nhà đầu tư lỗ trong giao dịch và số tiền kí quỹ không đủ thì trung tâm thanh toán bù 
trừ buộc nhà đầu tư phải thực hiện kí quỹ thêm theo đúng hợp đồng. Với điều này 
sẽ ràng buộc bên mua và bên bán thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và giúp họ biết trước 
khoản lãi lỗ khi đầu tư qua thông báo hằng ngày. 
1.2.3.  Ký quỹ 
Để đảm bảo các rủi ro trong giao dịch trên thị trường giao sau và tùy thuộc 
vào tính chất đầu tư, hệ thống ký quỹ sẽ có những quy định ràng buộc khác nhau. 
Chẳng hạn số tiền ký quỹ sẽ khác nhau khá lớn giữa chủ thể phòng ngừa biến động 
giá (hedging) và chủ thể đầu cơ (speculator), lúc nào chủ thể đầu cơ giá cũng luôn 
chịu  mức  ký  quỹ cao  hơn.  Số  tiền  ký  quỹ  tùy  thuộc  vào  số  lượng  hợp  đồng  và 
những quy định của sàn giao dịch giao sau. 
Tuy nhiên, chỉ có ba loại tài khoản ký quỹ : 
§  Mức ký quỹ ban đầu (Initial margin): mức ký  quỹ này do trung tâm thanh 
toán bù  trừ  tại  London quy định  dựa trên những  phân  tích lịch  sử  về  biến 
động giá cả của các hợp đồng giao sau, nó được xem xét định kỳ, phụ thuộc 
vào mức độ biến động. Mức ký quỹ ban đầu được áp dụng cho cả trạng thái 
trường/đoản trên cơ sở mỗi hợp đồng, và có thể hoàn lại dựa trên tính thanh 
khoản của các trạng thái. Mức ký quỹ thường chiếm khoảng 10­15% giá trị 
hợp đồng. 
§  Mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) là số dư tối thiểu trên tài khoản ký 
quỹ để duy trì một trạng thái mở sau khi đánh giá lại hàng ngày theo giá trị 
thị trường và điều chỉnh lãi lỗ. 
§  Mức ký quỹ bổ sung (Margin call): khi số dư tối thiểu hoặc số tiền ký quỹ 
ban đầu bị thiếu hụt theo quy định của trung tâm thanh toán bù trừ, các nhà 
đầu  tư cần thực hiện ký quỹ  bổ sung  (margin  call), khoản ký  quỹ bổ sung 
được tính trên cơ sở chênh lệch giữa giá  tất  toán của ngày hôm nay và giá 
đêm hôm trước, được tính toán dựa trên mỗi trạng thái mở.

Đến cuối tháng, giá cà phê trên thị trường giao sau tăng từ 25 triệu VNĐ mỗi 
tấn lên 27 triệu VNĐ. Công ty sẽ tiến hành  bán 10 hợp đồng giao sau này để kết 
thúc vị  thế mua vào  ngày  15/9/2010, lúc  này công  ty đã  tích lũy  được khoản  lợi 
nhuận ròng từ bảo hộ trên thị trường giao sau là 200 triệu VNĐ chỉ sau 1 tháng để 
bù vào chi phí đầu vào gia tăng khi mua giao ngay cà phê. 
§  “Short hedge” – “ phòng ngừa vị thế bán”: một chủ trang trại cà phê dự tính 
bán 50 tấn cà phê sẽ thu hoạch vào tháng sau. Người này muốn chắc chắn sẽ 
bán được giá nên đã quyết định bán chúng trên thị trường giao sau để bảo hộ 
trường  hợp giá  cà  phê  trên thế  giới  giảm  xuống.  Đối với sàn  giao  dịch  cà 
phê, giá trị nhỏ nhất cho mỗi hợp đồng giao sau cà phê được giao dịch là 10 
tấn. Vì vậy ông ta phải thực hiện bán 5 hợp đồng giao sau cà phê. Bảng dưới 
sẽ cho thấy sự biến động giá và kết quả bảo hộ giá từ hợp đồng này. Trong 
đó, cà phê được định giá bằng VND, chi phí giao dịch không đáng kể. Giá cà 
phê trong tháng ngày một tăng lên, đến 27 triệu đồng mỗi tấn, lúc này nếu để 
đến hạn ông ta sẽ bị mất khoản tiền khá lớn. Khôn ngoan hơn hết là chốt vị 
thế bán, chấm dứt hợp đồng. 
Ngày  Vị thế  Ft (triệu đ)  Tích lũy 
24/8/2010  Bán 5 HĐ giao sau  25  25­Sn 
24/9/2010  Mua 5 HĐ giao sau  27  Sn­27 
Tích lũy khi đến hạn  50*(25­ 27)= ­150.000 
1.2.5.  Nghiệp vụ đầu cơ trên thị trường giao sau 
Thị  trường  giao  sau  luôn  tồn  tại  tính  công  bằng  trong  giao  dịch,  đối  với 
những nhà kinh doanh tham gia phòng ngừa biến động giá, họ có thể bán hàng hóa 
ở mức giá tốt hơn hoặc loại bỏ vị thế trên thị trường giao sau để giao dịch hàng hóa 
trên thị trường giao ngay. Với những khoản tiền  bị mất do dự  đoán giá hàng hóa 
giao sau sẽ được chuyển tiếp cho những nhà đầu cơ, những người dám cược chiều
11 
ngược lại của  giá  hàng hóa. Họ cũng chính là thành phần không thể thiếu của thị 
trường. 
Có thể lấy một ví dụ đơn giản. Thị trường sản phẩm dầu thô giao ngay đang 

Tuy nhiên trước khi thị trường giao sau phát triển và phổ biến rộng rãi như 
hiện nay thì trước đó đã xảy ra rất nhiều tranh cãi giữa những nhà kinh tế học về lợi 
ích và rủi ro mà thị trường này mang lại. Thị trường giao sau cũng từng bị cáo buộc 
là nguyên nhân gia tăng nạn đầu cơ gây biến động giá cả khôn lường và không cần 
thiết, những người này cũng đồng thời cho rằng thị trường giao sau chỉ có lợi cho 
nhà đầu cơ thao túng giá cả và đi ngược lại lợi ích của người nông dân và người tiêu 
dùng,  các  cáo  buộc  cho  rằng  nó  không  chỉ bóp  méo  giá  cả mà  còn  tiếp  tay  cho 
những hoạt động phi pháp để làm giàu, do đó đã có một số nước trong thời kỳ đầu 
đã thực thi lệnh cấm giao dịch giao sau đối với một số loại hàng hóa nhất định, điển 
hình là Ấn Độ  trong các thập niên 50 và 60. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho 
rằng thị trường giao sau là công cụ đắc lực trong việc kiểm soát giá cả, ổn định sản 
xuất và quyết định đầu tư trong nền kinh tế. Nếu dựa vào mức độ tranh luận giữa 
những nhà phê bình với những người ủng hộ thị trường giao sau để cân nhắc lợi ích 
và rủi ro của nó sẽ là một nhiệm vụ không dễ dàng nếu không có những bằng chứng 
thực  nghiệm.  Trong  phần  dưới  chúng  ta  sẽ  đi  tìm  hiểu  một  số  nghiên  cứu  thực 
nghiệm của các nhà kinh tế học nhằm giải đáp những câu hỏi liên quan đến lợi ích 
và rủi ro của thị trường hàng hóa giao sau. 
Học giả Pavaska (1970) cho rằng các nhà phê bình đã sai lầm khi cho rằng 
các nhà đầu cơ làm trầm trọng sự tăng giá bằng cách kiếm lợi nhuận trong thời gian 
dài trên thị trường giao sau. Ông cho rằng sự thiếu vắng cơ chế thị trường giao sau, 
mức  độ  biến  động  giá  giao  sau  tương  ứng  có  thể  khiến  các  thương  nhân  và  các 
thành phần khác lo tích trữ hàng hóa, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá cả 
hơn so với bất kỳ một tác động nào khác của những giao dịch giao sau hợp pháp.
13 
Trái với quan điểm ủng hộ việc chính phủ thực hiện cấm các giao dịch giao 
sau làm ảnh hưởng xấu đến giá giao ngay, nhà kinh tế học Naik, AS (1970), trong 
cuốn sách của mình có tên là "Ảnh hưởng của Giao dịch giao sau lên giá cả", đã cho 
thấy rõ ràng rằng sự biến động giá là cao hơn khi không có thị trường giao sau so 
với giá khi có thị trường giao sau. Cô đã dẫn chứng bằng ba cây trồng như đay, hạt 
lanh và lạc. Theo đó cô tiến hành xem xét giai đoạn 1951­1952 đến 1965­1966 và 

nông nghiệp có thể để lâu thì sự biến động giá càng cao. Ông cũng nói rằng đối với 
loại hàng hóa này, cả giá giao ngay và giá giao sau đều không có ý nghĩa đối với 
nông  dân trong  việc  lập  ra  kế hoạch sản xuất cũng như  giá  giao ngay  đối với  thị 
trường của các sản phẩm nông nghiệp dễ hư hỏng. 
Tuy nhiên khám phá của Schultz đã có một vài sai sót bởi vì trong hệ thống 
thị trường giao sau, hợp đồng được ký trước và hàng hóa được cung cấp sau vào 
một ngày cụ  thể.  Như vậy,  trong  trường hợp người bán có đầy đủ hiểu biết hoặc 
thông tin về số lượng và chất lượng hàng hóa như vậy sẽ được bán ở mức giá nào, 
dựa vào đó ông ta có thể phân bổ lại nguồn lực của mình để gia tăng sản xuất nhằm 
đáp ứng theo hợp đồng. Nghĩa là người sản xuất có thể phòng ngừa cho lượng hàng 
hóa ông ta đang sản xuất ở thời điểm t và bán giao sau tại thời điểm t +1 khỏi những 
rủi ro tổn thất giá  trị và bảo  vệ  lợi nhuận bằng  cách chuyển những rủi  ro đó  cho 
người khác. Do đó, khoản  phí ông ta phải thanh toán để ngăn chặn hàng hóa của 
mình khỏi những rủi ro phụ thuộc vào xác suất xảy ra rủi ro và đơn giá phòng ngừa. 
Masahiro Kawai (1983) trình bày một mô hình lý thuyết giải thích ảnh hưởng 
của thị trường hàng hóa giao sau lên quá trình hình thành giá và lợi ích chung của 
toàn xã hội trên nền tảng những kỳ vọng hợp lý. Ông đã tính  toán ảnh hưởng của 
giá giao ngay lên sản xuất và sau đó dẫn giải khả năng của thị trường giao sau trong 
mô hình. Ông đã chỉ ra rằng mức độ tối ưu của sản xuất chỉ phụ thuộc vào giá cả 
giao sau và hệ số chi phí. Theo ông, số lượng hợp đồng giao sau được xác định bởi 
mức tối ưu của sản xuất và đầu cơ phản ánh sự khác biệt giữa kỳ vọng chủ quan của 
nhà  sản  xuất  về  giá  giao ngay thời gian tới và giá  giao sau tương  ứng.  Kawai đã 
không xem xét đến tác động của những biến động trong kế hoạch sản xuất đến thị
15 
trường  giao sau.  Hơn nữa, những quyết  định  trong sản  xuất được thực hiện  hoàn 
hoàn toàn độc lập với những quyết định về giao dịch giao sau bất chấp rủi ro và xác 
suất của giá giao ngay. Ông cũng lập luận rằng nhà sản xuất sử dụng hợp đồng giao 
sau không chỉ để phòng ngừa rủi ro biến động giá mà còn để tìm kiếm cơ hội đầu 
cơ. 
Quay trở lại mô hình của Basab Dasgupta, biến động trong sản xuất đóng vai 

Nói tóm lại, qua rất nhiều tranh luận thông qua những mô hình lý thuyết và 
bằng chứng thực nghiệm của các nhà kinh tế học, cho đến nay thị trường giao sau 
đã chứng minh được lợi ích của mình trong việc cung cấp công cụ phòng ngừa rủi 
ro biến động giá cho các nhà sản xuất, đương nhiên trong thị trường này vẫn tồn tại 
những rủi ro là sự phát triển mạnh của các nhà đầu cơ, tuy nhiên các chính phủ chỉ 
cần  kiểm  soát  hoạt  động  này  trong  khuôn  khổ  luật  pháp  cho  phép  thì  nó  không 
những không gây hại cho nền kinh tế mà còn có tác dụng làm tăng tính thanh khoản 
cho thị trường này. 
1.4.  Thực trạng ứng dụng Hợp đồng Giao sau trên thế giới 
1.4.1.  Thực trạng Giao sau trên thế giới 
Thế giới ngày nay đang bước vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Bất kỳ sự thay 
đổi nào của tình hình kinh tế thế giới cũng đều ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc 
gia. Ngược lại,  sự chuyển biến trong nền kinh tế quốc gia  cũng tác động đến  tình 
hình kinh tế trong khu vực hay trong phạm vi thế giới. 
Toàn  cầu  hóa  mang  lại  nhiều  thuận  lợi  nhưng  đồng  thời  cũng  mang  đến 
nhiều khó khăn. Những khó khăn đó chính là rủi ro có thể nhận thấy và rủi ro tiềm 
ẩn. Các rủi ro này tồn tại một cách ngẫu nhiên trong tất cả quá trình sản xuất, kinh 
doanh, quản lý. Chúng hoàn toàn có thể làm cho nhà đầu tư mất sạch tiền, công ty 
phá sản và nền kinh tế của một quốc gia suy sụp. Đối mặt trước những nguy cơ đó, 
các  phái  sinh  tài  chính  như  hợp  đồng  giao  sau  (Futures),  hợp  đồng  quyền  chọn 
(Option),  hợp đồng hoán  chuyển  lãi  suất  (Swap)…  ngày  càng  được  sử  dụng một 
cách rộng rãi trên toàn thế giới như là những công cụ chủ yếu và không thể thiếu
17 
được trong việc quản lý rủi ro. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào thị trường 
này ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào thông qua hệ thống GLOBEX nối liền 12 
trung  tâm  tài  chính  thế  giới  (Bermuda,  Boca Raton, Chicago, Geneva, Hamburg, 
Hong Kong, London, New York, Paris, Singapore, Tokyo, Zurich). 
1.4.2.  Thành tựu của thị trường giao sau trên thế giới 
1.4.2.1.  Các sàn giao dịch giao sau 
Giao dịch giao sau xảy ra trên hơn 50 sàn giao dịch giao sau khắp thế giới. 

vài năm đã có hợp đồng giao sau chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones, một chỉ 
số tên tuổi trên thị trường chứng khoán . 
Hợp đồng  giao  sau chỉ số  chứng khoán đã  thành công vang dội khắp  toàn 
cầu. Hầu hết các nước phát triển đều có sàn giao dịch giao sau riêng cho hợp đồng 
chỉ  số  chứng  khoán hoạt  động.  Một  số  nước  có  hợp  đồng  giao sau  chỉ  số  chứng 
khoán phổ biến gồm Anh, Pháp, Nhật, Đức, Tây Ban Nha và Hongkong 
1.4.3.  Thị trường giao sau ở Việt Nam 
Trong điều kiện hiện nay, các thành phần kinh tế luôn phải đối mặt với các 
rủi ro về giá cả, thông tin, thị trường (nguồn hàng, cung ­ cầu) và tỷ giá trong hoạt 
động xuất nhập khẩu. Những rủi ro này không chỉ ảnh hưởng đến những người trực 
tiếp sản xuất, kinh doanh mà ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các 
thành phần kinh tế Việt Nam chỉ biết chấp nhận vì chưa có công cụ bảo vệ rủi ro. 
Trong những năm gần đây, khi tiếp xúc làm ăn với nước ngoài, chúng ta dần 
dần biết được những phương cách bảo hộ rủi ro trên thị trường tài chính phái sinh. 
Một số doanh nghiệp đã sử dụng công cụ này để bảo hộ cho hoạt động kinh doanh 
của mình và dựa vào thông tin, giá cả trên các thị trường này để điều tiết sản xuất, 
không còn lo bị ép giá. Việt Nam đang tổ chức các chợ đầu mối, các trung tâm giao 
dịch  và  tiến  tới  hình  thành  các  thị  trường  giao  sau  về  nông  sản.  Trong  lĩnh  vực 
ngoại  hối,  Chính phủ đã  cho  phép  sử dụng hợp đồng quyền chọn để bảo vệ  hoạt 
động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy muộn màng so với xu thế phát triển thế giới 
nhưng sự khởi đầu này cũng là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam.
19 
Hợp đồng giao sau được ứng dụng rộng rãi trên thế giới để phòng ngừa rủi ro, thu 
hút các nhà đầu cơ tham gia  và kích thích phát triển kinh tế. Là bộ phận của nền 
kinh tế thế giới, chịu rủi ro từ những biến động kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên học 
hỏi xây dựng Sàn giao dịch giao sau phục vụ cho mục đích phòng ngừa rủi ro, tạo 
đà cho kinh tế phát triển vững bền. 
1.5.  Sự cần thiết của việc ứng dụng Thị trường giao sau để phòng ngừa rủi ro 
biến động giá cà phê tại Việt Nam hiện nay 
Hợp đồng giao sau là một khái niệm khá mới về mặt kinh tế lẫn trong khoa 

Chiến  lược phòng ngừa  rủi  ro biến  động  giá  bằng  việc  sử  dụng hợp  đồng 
giao sau là một công cụ hữu dụng trong ngắn hạn và trung hạn để bảo vệ thu nhập 
cho nhà sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, khu vực có 
nhiều sản phẩm có thể thực hiện tồn trữ và bán giao sau. Tuy chịu nhiều tác động 
của rủi ro (rủi ro giá cả, lãi suất, thời tiết…) nhưng nếu xây dựng được thị trường 
giao  sau  các  mặt  hàng  nông  sản  tại  Việt  Nam  thì  người  nông  dân  và  các  doanh 
nghiệp  sản  xuất nông  sản  vẫn  có  thể  đương  đầu  với  rủi  ro  và  kinh doanh  có  lợi 
nhuận.
21 
CHƯƠNG II: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ TẠI THỊ TRƯỜNG 
CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG HỢP 
ĐỒNG GIAO SAU VÀO GIAO DỊCH CÀ PHÊ 
2.1. Rủi ro biến động giá tại thị trường cà phê Việt Nam: 
2.1.1.  Rủi ro biến động giá do giá xuất khẩu phụ thuộc vào giá thế giới 
2.1.1.1.  Tìm hiểu biến động giá cà phê trên thế giới thời gian qua 
Cây  cà  phê  lần  đầu  tiên  được phát hiện  ở  Ethiopia  cách đây  khoảng 2000 
năm, cùng với sự phát triển không biên giới của thị trường thương mại, cà phê đã có 
mặt ở hầu hết các nước châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Hai loại cà phê được giao 
dịch thương mại nhiều nhất là cà phê Arabica (gọi tắt là Arabica) và cà phê Robusta 
(gọi tắt là Robusta). 
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng sản lượng cà phê của các nước và khu vực trên thế 
giới vụ mùa 2008/2009 
Nguồn: www.ico.org 
Mặc dù cây cà phê được trồng đầu tiên ở Ethiopia nhưng từ giữa thế kỷ 19 
Brazil  đã  là nước dẫn đầu  về  sản  lượng,  hàng  năm chiếm khoảng  trên  30%  tống 
lượng xuất khẩu thế giới. Việt nam là một thị trường xuất khẩu lớn, từ thập niên 90
22 
đã  vươn  lên  là  nước  đứng  thứ  hai  thế  giới  về  sản  lượng  xuất  khẩu,  thứ  3  là 
Colombia. Hiện nay, với 2 đại diện là Brazil và Colombia, Nam Mỹ trở thành khu 
vực có thị phần cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 47% tổng sản lượng cà phê 

nước xuất khẩu cà phê vẫn tập trung đến việc tăng sản lượng hơn là quan tâm cải 
thiện chất lượng cà phê xuất khẩu do đó giá cà phê thế giới vẫn liên tục nhảy múa 
trong niên vụ 2008/2009. 
Theo  dự  báo  mới  nhất  của  ICO,  sản  lượng  cà  phê  toàn  cầu  niên  vụ 
2010/2011 sẽ đạt mức 133­135 triệu pound; tiêu dùng cà phê năm nay sẽ phục hồi 
nhưng cũng chỉ ở mức 129 triệu pound. So với mức sụt giảm hồi đầu năm nay, hiện 
giá cà phê đang ở mức cao nhưng nhiều dự báo cho rằng đây chỉ là sự tăng giá do 
hạn chế nguồn cung trong ngắn hạn, bởi hiện mới chỉ có Braxin đang thu hoạch cà 
phê. Vào tháng 11­12, khi Côlômbia và các nước Trung Mỹ đưa hàng ra thị trường, 
Việt Nam cũng bước vào vụ thu hoạch thì giá cà phê sắp tới sẽ rất khó lường. 
Cà phê có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới. Biến động giá 
cà phê đã khiến cho nông dân nhiều nước điêu đứng. Biến động giá cà phê thế giới 
đã và đang tiếp tục có những ảnh hưởng tới ngành cà phê Việt Nam, một nước có 
khoảng 95% sản lượng được xuất khẩu.
24 
2.1.1.2.  Nguyên nhân gây ra bất ổn giá cà phê thế giới 
v  Nguồn cung của những nước có sản lượng lớn 
Giá cà phê thế giới phụ thuộc rất lớn vào sản lượng của những quốc gia đang 
nắm giữ tỷ trọng xuất khẩu lớn như Brazil, Colombia, Việt Nam. Nếu thời tiết tại 
các nước này diễn biến không tốt có khả năng mất mùa thì giá cà phê sẽ tăng lên và 
ngược lại. 
Mùa đông Brazil thường diễn ra trong khoảng  từ  21/6 đến 25/8 hàng năm, 
đây là thời gian lạnh nhất trong năm, biểu đồ giá cà phê luôn có tỷ lệ nghịch với hàn 
thử biểu trong giai đoạn này, chỉ với một bản báo cáo đêm qua nhiệt độ những vùng 
trồng đã xuống thấp dưới 0°C hoặc dự báo trong những ngày tới sẽ rất lạnh thì hầu 
như ngày hôm sau thế nào giá cũng tăng, hoặc ít nhất là không sụt thêm nữa. 
v  Giá trị và khối lượng cà phê giao dịch tại các sàn giao dịch trên thế giới 
Lượng cà phê giao dịch trên thế giới ước tính lớn gấp 5 lần (hoặc hơn nữa) 
lượng cà phê thực mà nông dân làm ra (sản lượng thế giới khoảng 127 triệu pound 
trong vụ 2009). Tức là cũng một bao cà phê ấy thôi, nhưng nhà đầu tư A bán cho 

Đơn giá XK bình quân 
(USD/tấn) 
2001  844,452  338,094,000  400.37 
2002  702,017  300,330,000  427.81 
2003  693,863  446,547,000  643.57 
2004  745,000  576,154,000  773.36 
2005  786,025  840,000,000  1,068.67 
2006  887,000  1,070,000,000  1,206.31 
2007  1,190,000  1,860,000,000  1,563.02 
2008  1,060,000  2,135,000,000  2,014.15 
2009  1,180,000  1,730,000,000  1,466.10 
Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com 
Hiện nay nước cung cấp cà phê lớn nhất thế giới là Brazin mỗi năm sản xuất 
2,5 triệu tấn cà phê, trong đó 50% dùng chế biến cà phê hòa tan trong nước, một 
phần  sản lượng cà phê  hòa tan  này được xuất  khẩu. Với  hơn 100  triệu  dân, bình 
quân  mỗi  người  dân  tiêu  dùng  4­5kg  cà  phê  thì  lượng  tiêu  thụ  trong  nước  của 
Braxin đã khoảng 450.000 tấn nên họ không bị ảnh hưởng bởi giá quốc tế.

Trích đoạn Xây dựng khung pháp lý đồng bộ và hoàn thiện cho các hoạt động của thị trường giao sau 
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status