Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện mù cang chải - tỉnh yên bái - Pdf 85

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

đại học thái nguyên
tr-ờng đại học kinh tế và quản trị kinh doanh
-------------------------------------------------

TRNG TUN LINH
NH GI HIU QU CANH TC TRấN T DC
HUYN M CANG CHI- TNH YấN BI

Luận văn Thạc sĩ kinh tế

Thỏi Nguyờn, nm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH TRƯƠNG TUẤN LINH
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở
HUYỆN MÙ CANG CHẢI- TỈNH YÊN BÁI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60- 31- 10
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thái Nguyên, năm 2009

Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH


đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất đai là đối tượng lao động vì
nó chịu sự tác động của con người trong quá trình canh tác. Đất đai là tư liệu
lao động vì nó phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người dùng
đất đai để trồng cây và chăn nuôi tạo ra thu nhập. Như vậy sẽ không có sản
xuất nông nghiệp nếu không có đất, và chỉ có thông qua đất, các tư liệu sản
xuất mới tác động đến cây trồng. Sử dụng đất đai đúng hướng còn quyết định
đến hiệu quả của sản xuất.[40]
Theo Dữ liệu năm 2005 của Dự án Dân số thế giới của Liên hợp quốc,
thì hiện nay tổng diện tích đất trên toàn thế giới là 134.682.000km
2
, với dân
số gần 7 tỷ người và mật độ dân số là 48 người/km
2
. Diện tích đất đưa vào sản
xuất trồng trọt vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy
vậy trong nhiều thập kỷ qua đất vẫn phải tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gần 7 tỷ người. Và hàng năm một tỷ lệ dân số
lớn khoảng 10% vẫn đang trong tình trạng thiếu ăn hoặc bị nạn đói đe doạ,
nhất là ở các quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á.
Việt Nam với diện tích tự nhiên là 331.689 km
2
xếp thứ 55 trong tổng
số hơn 200 nước trên thế giới. Nhưng với dân số lớn khoảng 87 triệu người
(thứ 12) và mật độ dân số đông 254 người/km
2
(thứ 46) nên bình quân đất tự
nhiên theo đầu người thấp, chỉ khoảng 0,48ha/người, bằng 1/6 mức bình quân
thế giới.
2


kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp miền núi trung du trên cơ sở phát huy
lợi thế của vùng nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục tiêu chung
Đề tài nhằm chỉ ra mô hình canh tác trên đất dốc tối ưu, góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội cho huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái nói
riêng và các khu vực trong cả nước có cùng điều kiện nói chung.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá được lý luận và thực tiễn về canh tác trên đất dốc.
- Đánh giá được thực trạng và hiệu quả canh tác bền vững trên đất dốc
của người dân huyện Mù Cang Chải.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như
nhân rộng mô hình canh tác hiệu quả trên đất dốc cho huyện Mù Cang Chải.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả canh tác trên đất dốc của các hộ gia đình trên địa bàn huyện
Mù Cang Chải – Yên Bái
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại huyện Mù
Cang Chải tỉnh Yên Bái. Địa điểm nghiên cứu là tại hai xã La Pán Tẩn và xã
Chế Cu Nha, nơi có đặc điểm đại diện và điển hình nhất cho phương thức
canh tác hợp lý trên đất dốc của huyện Mù Cang Chải, cũng như của vùng núi
phía Bắc Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thứ cấp qua 03 năm
2006 – 2008 ; thu thập số liệu sơ cấp năm 2008.
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Phân tích, đánh giá hiện trạng hiệu quả
kinh tế, xã hội, môi trường đồng thời đề tài còn nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các

định qua nhiều năm (www.khuyennongvn.gov.vn).
* Tính bền vững trong quản lý sử dụng đất dốc
Từ lâu những người làm nông nghiệp đã hiểu rằng môi trường sống lâu
dài của con người tuỳ thuộc rất nhiều vào việc giữ gìn, quản lý đất, nước và
dinh dưỡng địa quyển vì nó rất có hạn. Thật vậy, đất bị xói mòn, diện tích
canh tác ngày càng thu hẹp do qúa trình công nghiệp hoá, chất lượng đất (độ
phì nhiêu) giảm dần không chỉ tước mất cơ hội kiếm sống của người nông dân
mà còn đe doạ cuộc sống của toàn xã hội về lương thực và thực phẩm.
6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tác động phụ thuộc qua lại của môi trường tự nhiên và xã hội chi phối
quản lý sử dụng đất bền vững. Khái niệm tính bền vững của một hệ thống
quản lý sử dụng đất rộng lớn hơn là bền vững về độ phì nhiêu, nó bao gồm 3
phương diện: bền vững về kinh tế, sự chấp nhận của xã hội và bền vững về
môi trường.
Trong lịch sử canh tác đất đã từng có 3 hệ thống được công nhận có sức
sản xuất ổn định tuy mức hiệu quả có khác nhau, đó là:
Hệ luân phiên cây trồng bỏ hóa một vụ
Hệ chăn thả gia súc luân phiên
Hệ canh tác lúa nước.
Các hệ thống này tồn tại khá lâu và được xem như là một mô hình sản
xuất trong điều kiện đòi hỏi mức đầu tư thấp, hưởng lợi thấp và điều kiện tự
nhiên (đất, nước…) còn dồi dào.
Nhưng ngày nay với những biến đổi lớn lao trên toàn cầu, khu vực, mỗi
quốc gia thậm chí từng địa phương thì các hệ canh tác đó không thể tồn tại
bền vững ở khắp nơi như xưa nữa. Ở các vùng núi cao, nếu chỉ xét đơn thuần
về mặt kinh tế trên đơn vị diện tích thì không có hệ thống cây trồng nào sinh
lợi bằng trồng cây thuốc phiện. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế cao không thôi rõ
ràng không thể tồn tại được trước áp lực xã hội đòi hỏi loại khử căn nguyên

đất dốc ở Việt Nam
- Bền vững về kinh tế : Năng suất trên mức bình quân vùng, năng suất tăng
dần, đạt tiêu chuẩn sản phẩm tiêu thụ tại địa phương và xuất khẩu; giá trị sản
xuất trên chi phí đạt trên 1,5 lần; ít mất trắng do hạn và sâu bệnh, có thị
trường ổn định, dễ bảo quản và vận chuyển.
8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Chấp nhận xã hội với 6 tiêu chí:
+ Đáp ứng nhu cầu của hộ về lương thực, thực phẩm, về tiền mặt và nhu
cầu khác.
+ Phù hợp với năng lực nông hộ về đất đai, lao động, vốn và kỹ năng sản xuất.
+ Người lao động tự quyết công việc đồng áng, không áp đặt và được hưởng
lợi ích thoả đáng.
+ Giảm nặng nhọc cho phụ nữ, không làm trẻ em mất cơ hội học hành.
+ Phù hợp luật pháp hiện hành ( Luật Đất đai và Luật Bảo vệ rừng, mặt nước).
+ Được cộng đồng nông thôn công nhận phù hợp tập quán, văn hoá dân tộc.
- Bền vững về sinh thái có 4 tiêu chí:
+ Giảm thiểu xói mòn, thoái hoá đất dưới mức cho phép, tăng độ phì nhiêu
cho đất hoặc ít ra cũng duy trì, bảo toàn độ phì nhiêu.
+ Tăng độ che phủ (che phủ trên 35% quanh năm).
+ Bảo vệ nguồn nước: Duy trì và tăng nguồn sinh thuỷ, không gây ô nhiễm
nguồn nước.
+ Nâng cao, đa dạng hoá sinh học của hệ sinh thái, tỷ lệ cây dài ngày cao nhất
có thể được, khai thác tối đa các loài bản địa, bảo toàn và làm phong phú
quỹ gien.
* Những nguyên tắc đánh giá tính bền vững
Bền vững là một khái niệm động, bền vững ở nơi này có thể không bền
vững ở nơi khác, bền vững ở thời điểm này, có thể không bền vững ở thời
điểm khác. Đo lường trực tiếp tính bền vững là một khó khăn nhưng sự đánh

Kinh nghiệm làm ruộng bậc thang ở miền núi đã có từ lâu, nhưng chỉ
áp dụng được ở nơi có tầng đất dày và độ dốc thấp cộng với đầu tư công lao
động lớn. Đối với những sườn núi có độ dốc cao, tầng đất mỏng thì tạo tiểu
10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
bậc thang kết hợp che phủ đất và chọc lỗ gieo thẳng mà không làm đất là một
kỹ thuật rất có hiệu quả, nâng cao năng suất cây trồng, bảo vệ và tăng độ phì
cho đất. Tiểu bậc thang được kiến tạo bề mặt từ 30-40cm và nên trồng các
loại cây thích hợp để bảo vệ bờ bậc thang, có thể kết hợp trồng cỏ để làm thức
ăn gia súc, trồng cây họ đậu qua đông để bảo vệ và cải tạo đất.
Trồng xen cây họ đậu vào nương sắn
1.1.1.2. Hiệu quả và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
a) Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá tính bền vững quản lý sử
dụng đất. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh về mặt chất
lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi các nguồn lực sản
xuất có hạn, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của xã hội ngày càng gia tăng và
đa dạng thì nâng cao hiệu quả kinh tế là một xu thế khách quan và bức xúc
của sản xuất xã hội.
Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và sự phát
triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, đó là thỏa mãn ngày càng cao (tăng số
lượng và chất lượng) về nhu cầu vật chất xã hội. Đánh giá kết quả sản xuất là
đánh giá về mặt số lượng còn đánh giá hiệu quả của sản xuất là xem xét tới
mặt chất lượng của quá trình sản xuất đó.
Như vậy, hiệu quả là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh mặt chất
lượng của hoạt động kinh tế và là đặc trưng của mọi hình thái kinh tế xã hội. Bởi
thế, để có một quan điểm hoàn chỉnh về hiệu quả kinh tế, chúng tôi xuất phát từ
luận điểm kinh tế học của Các Mác
«

đầu vào (chi phí) và các yếu tố đầu ra (kết quả) trong quá trình sản xuất ở
từng đơn vị, ngành, nền sản xuất xã hội trong từng thời kỳ nhất định các
doanh nghiệp với mục đích là tiết kiệm lợi nhuận tối đa trên cơ sở khối lượng
sản phẩm hàng hóa nhiều nhất với các chi phí tài nguyên và lao động thấp
nhất. Do đó hiệu quả kinh tế liên quan trực tiếp đến yếu tố đầu vào và yếu tố
đầu ra của quá trình sản xuất.
Như vậy việc đánh giá hiệu quả phải được xem xét một cách toàn diện,
cả về mặt thời gian và không gian trong mối liên hệ giữa hiệu quả chung của
nền kinh tế quốc dân với hiệu quả của từng bộ phận của các đơn vị, xí nghiệp;
hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và có quan hệ mật
12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thiết với nhau như một thể thống nhất không tách rời nhau. Đứng trên góc độ
nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả của xã hội phải gắn liền với hiệu quả của
toàn xã hội, trên cả mặt kinh tế và xã hội. Gắn chặt hiệu quả của các đơn vị
kinh tế với hiệu quả toàn xã hội là đặc trưng riêng thể hiện tính ưu việt của
nền kinh tế thị trường dưới CNXH.[25].
b) Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội phản ánh mối quan hệ giữa kết quả hữu ích về mặt xã
hội và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó đánh giá chủ yếu về mặt xã
hội của hoạt động sản xuất. Các loại hiệu quả có liên quan chặt chẽ với hiệu
quả kinh tế và biểu hiện mục tiêu hoạt động của con người.
c) Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là hiệu quả của việc làm thay đổi môi trường do
hoạt động sản xuất gây ra như : xói mòn, ô nhiễm đất, không khí, bệnh
tật…Việc xác định hiệu quả môi trường là tương đối khó.
Trong 03 loại hiệu quả trên thì hiệu quả kinh tế đóng vai trò quyết định
và nó được đánh giá đầy đủ khi kết hợp với hiệu quả xã hội và môi trường.
d) Hiệu quả canh tác trên đất dốc

lực, ngoại lực) và khả năng tiếp nhận công nghệ mới.
- Nhóm nhân tố khách quan
+ Nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên :
> Đặc điểm lý hoá tính của
> Nguồn nước và chế độ nước
> Địa hình và thổ nhưỡng
> Vị trí địa lý
+ Nhân tố thuộc điều kiện kinh tế- xã hội
> Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm
14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
> Thị trường tiêu thụ sản phẩm
> Các quan hệ về sở hữu và sử dụng đất nông lâm nghiệp.
> Trình độ và tập quán sản xuất của chủ sở hữu đất
> Sự phát triển của các ngành kinh tế khác vì giữa các ngành kinh tế đó
có mối quan hệ hai chiều vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy nhau phát triển.
> Môi trường chính sách khuyến khích nông lâm nghiệp phát triển.
> Phân vùng quy hoạch và bố trí sản xuất nông lâm nghiệp giúp cho
việc khai thác sản xuất một cách triệt để, hiệu quả tài nguyên đất theo hướng
CNH- HĐH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
> Ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông lâm nghiệp.
Tóm lại, quá trình quản lý sử dụng đất bền vững và có hiệu quả chịu sự
tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Vấn đề quan trọng là các
bên liên quan có nhận thức đúng các yếu tố này, lợi dụng mặt tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực làm chủ thời cơ trong quản lý kinh doanh sản xuất để
đạt được hiệu quả kinh tế cao cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
* Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
+ Giá trị gia tăng = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian

- Trải qua hàng nghìn năm sản xuất nông nghiệp, với kinh nghiệm
truyền thống và đặc biệt với những bước tiến của khoa học nông nghiệp hiện
đại của những thập kỷ qua, nhiều loại đất đã được sử dụng hợp lý, được bảo
vệ, cải tạo và bồi dưỡng để duy trì và tăng độ màu mỡ tăng khả năng sản xuất,
trong đó có diện tích đất đáng kể của vùng đồi núi.
- Trên các vùng đồi núi, chính sách định canh định cư, chống phát
nương, đốt rẫy, du canh, kiến thiết ruộng bậc thang, xây dựng đường, băng
đồng mức chống xói mòn trên sườn đồi dốc, trồng cây phân xanh, cây phủ đất
16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
giữ ẩm...đã tạo nên những loại hình sử dụng đất bền vững và bảo vệ đất dốc
có hiệu quả. Các loại rừng đầu nguồn được bảo vệ, diện tích rừng trồng đã
phủ xanh một phần diện tích đất trống đồi núi trọc, trả lại môi trường tự nhiên
cho đất rừng, phục hồi chất hữu cơ cho đất. Sự phát triển gần đây của các
trang trại nông lâm kết hợp, vườn quả, đồng cỏ chăn thả trên các diện tích đất
trống đồi núi trọc, đất đã bị thoái hoá nghiêm trọng, bị xói mòn rửa trôi thực
sự khẳng định vai trò và khả năng bảo vệ và cải tạo đất tích cực của con
người. Những hoạt động tích cực trên đã góp phần bảo vệ và tăng cường độ
màu mỡ của đất, tăng khả năng sản xuất của đất và thiết thực bảo vệ môi trường
sinh thái của đất.
Tác động tiêu cực
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, con người cũng đã gây ra biết
bao tác hại cho đất và môi trường sinh thái của đất, đặc biệt nước ta đã trải
qua hàng ngàn năm sản xuất nông nghiệp lạc hậu và chiến tranh tàn phá dữ
dội, ngay cả việc tàn phá rừng của vùng đồi núi.
- Trên đất vùng đồi núi: Tập quán du canh du cư, di cư tự do, phá rừng,
đốt nương bừa bãi đã gây nên mất rừng, xói mòn rửa trôi đất nghiêm trọng.
Nạn ngập lụt, lũ ống, lũ quét về mùa mưa, khô hạn, cháy rừng vào mùa khô
đã trở thành mối hiểm hoạ của nhiều vùng như ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây

của nhiều nước 1980, chương trình IBSRAM, CIAT, thập kỷ 90).
Để bảo vệ đất dốc, nhiều nước trên thế giới sử dụng cây cỏ 3 lá vào hệ
thống cây trồng, hoặc đưa cây đậu tương vào trồng xen với ngô, hoặc trồng
theo đường đồng mức.
Từ những năm thập kỷ 80-90, hệ thống nông lâm kết hợp và đa dạng
hoá cây trồng trên đất đồi núi đã được thử nghiệm và lan rộng khắp nơi bởi
18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tính ưu việt về sử dụng đất bền vững và hiệu quả của hệ thống này. Năm
1983, ICRAF đã đưa ra định nghĩa khá hoàn hảo về hệ thống nông lâm kết
hợp: ''Đó là hệ thống sử dụng đất bao gồm các cây gỗ lâu năm và các cây
nông nghiệp hàng năm hoặc cây thức ăn gia súc, hoặc cả hai trên cùng một
mảnh đất đồng thời hay luân phiên với mục đích cho sản phẩm tối đa và duy
trì sản xuất lâu bền do bảo vệ và tăng cường được độ màu mỡ đất.
Bên cạnh những nghiên cứu kỹ thuật về sử dụng hiệu quả và bảo vệ
chống suy thoái đất dốc, ngày nay sử dụng đất đồi núi bền vững còn đặc biệt
chú trọng đến khía cạnh phát triển kinh tế và xã hội vùng đồi núi nhằm đảm
bảo một hệ thống sử dụng đất bền vững cho đất dốc nói riêng và đất vùng đồi
núi nói chung. Nhóm công tác về "Khung đánh giá đất dốc bền vững
(Nairobori, 1991) đã nêu lên quan điểm" Quản lý bền vững đất đai bao gồm tổ
hợp các công nghệ, chính sách và các hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý
kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời (a) duy trì hoặc nâng
cao sản lượng (hiệu quả sản xuất), (b) giảm rủi ro sản xuất (an toàn), (c) bảo vệ
tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước (bảo vệ), (d)
có hiệu quả lâu dài (lâu bền) và (e) được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận).
* Kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á
Diện tích đất đồi núi ở khu vực Đông Nam Á được phân bố ở tất cả các
nước trong khu vực, trong đó nhiều nhất là ở Việt Nam (chiếm 75% tổng diện
tích toàn quốc) và ở Lào (chiếm 73% tổng diện tích toàn quốc). Phần lớn diện

cao vừa bảo vệ đất dốc, bảo vệ môi trường. Một yếu tố quan trọng mà các
nghiên cứu trong hệ thống này đề cập là các biện pháp kỹ thuật muốn được
nông dân áp dụng phải là biện pháp có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, với
các hộ dân nghèo thì cần phải xem xét mức đầu tư tiền mặt cho phù hợp.
* Kinh nghiệm của Indonesia
20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống canh tác trên đất dốc của
Intosh J.L.Mc. (1990) [38] ở Indonesia và nhiều nơi khác những vùng đất
nông nghiệp rộng lớn chỉ thích hợp cho hoa màu cạn, tài nguyên đất dốc chưa
được sử đúng mức và trong nhiều trường hợp còn bị lãng phí. Ở Indonesia có
khoảng 15 – 20 triệu ha đất dốc địa hình lượn sóng nhẹ có thể trồng hoa màu
nhưng chưa được khai thác sử dụng có hiệu quả.
Samfujika (1996) [32] nghiên cứu biện pháp chống xói mòn ở
Indonesia cho thấy phương pháp làm ruộng bậc thang rất hiệu quả trong việc
hạn chế xói mòn, rửa trôi nhưng rất tốn công. Vì vậy họ đã nghiên cứu các
biện pháp khác. Một trong những biện pháp đó là làm đất tối thiểu, lên luống
và ủ đất. Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có những mặt hạn chế.
Nghiên cứu của Bell L.C. (1986) [34] sử dụng phân xanh, phân chuồng
và các loại phân hữu cơ hoặc chế, phụ phẩm nông nghiệp đã làm tăng lân dễ
tiêu cho cây dễ hấp thụ, đồng thời làm giảm độ độc nhôm và sắt. Trong dung
dịch đất, các axits hữu cơ tạo phức với kim loại Al, Fe. Chúng tồn tại ở dạng
phức hữu cơ – nhôm, hữu cơ - sắt trong dung dịch đất không độc đối với
cây trồng.
1.1.2.3. Tình hình canh tác trên đất dốc ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, diện tích đất đồi núi nước ta chiếm gần 3/4 diện
tích toàn quốc, khoảng 23,9 triệu ha, do vậy, sử dụng đất đồi núi sản xuất
nông lâm nghiệp chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế. Canh tác
trên đất dốc với hình thức canh tác nương rẫy là một hình thức sản xuất nông

(36,5% đất tự nhiên). Tuy nhiên, ở nhiều nơi, do không có đất bằng nên nông
dân miền núi vẫn phải dựa vào đất dốc để sản xuất lương thực và vẫn mang
đậm phương thức canh tác nương rẫy truyền thống.
Từ những năm của thập kỷ 80 và 90 đến nay, các chương trình nghiên
cứu và sử dụng đất đồi núi tập trung vào các dự án đánh giá đất và xây dựng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status