Tảo hôn thực trạng, nguyên nhân và giải pháp - Pdf 95

MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3
1. Khái niệm tảo hôn
3
2. Thực trạng nạn tảo hôn ở Việt Nam
4
2.1. Tình hình nạn tảo hôn trên cả nước

4
2.2. Những khó khăn đặt ra từ nạn tảo hôn

6
3. Nguyên nhân của nạn tảo hôn
7
3.1. Nguyên nhân khách quan

7
3.2. Nguyên nhân chủ quan

9
4. Những giải pháp loại trừ nạn tảo hôn ở Việt Nam
1
4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật trong nhân dân
10
4.2. Nâng cao trách nhiệm của chính quyền trong quá trình quản lý


nhằm hạn chế nạn tảo hôn, nhóm chúng em xin lựa chọn đề tài: “Tảo hôn –
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”.
3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. KHÁI NIỆM TẢO HÔN
Khoản 4 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Tảo
hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn
theo quy định của pháp luật”. Cách giải thích của Luật Hôn nhân và Gia đình có
thể được hiểu theo các nghĩa sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tảo hôn là việc nam nữ lấy vợ lấy chồng có
đăng ký kết hôn nhưng một hoặc cả hai bên chưa đủ độ tuổi kết hôn theo quy định
của pháp luật. Theo quan điểm này, tảo hôn là một trường hợp của kết hôn trái
pháp luật tại Khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. Đây là quan điểm
phổ biến nhất hiện nay. Với cách hiểu này, để được coi là tảo hôn phải thoả mãn
hai điều kiện: (1) hai bên nam nữ có đăng ký kết hôn và (2) một hoặc hai bên vi
phạm điều kiện độ tuổi quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Quan điểm thứ hai: Tảo hôn là việc nam nữ lấy vợ lấy chồng không đăng
ký kết hôn và một hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định pháp luật.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Tảo hôn bao gồm cả hai trường hợp trên, tức
là việc nam nữ lấy vợ, lấy chồng có đăng ký kết hôn hoặc không đăng ký kết
hôn nhưng một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo pháp luật.
Ta thấy rằng, trong quy định của Luật chỉ nói tảo hôn là việc “lấy vợ,
lấy chồng ” mà không nói rằng “tảo hôn là việc kết hôn ”. Việc lấy vợ, lấy
chồng ở đây có thể đã có đăng ký kết hôn hoặc chưa có đăng ký kết hôn. Bởi
vậy, nếu cho rằng tảo hôn là một trường hợp của kết hôn trái pháp luật (tức là
xác lập quan hệ vợ chồng có đăng kí kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn
do pháp luật quy định) là không hoàn toàn chuẩn xác. Do đó, theo quan điểm
của nhóm, khái niệm tảo hôn cần được mở rộng hơn, theo đó, tảo hôn là việc
xác lập quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ khi một hoặc hai bên chưa đủ độ
tuổi kết hôn mà không phụ thuộc vào việc quan hệ đó có được xác lập tuân theo

.
1
Theo trang web của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình />2
Ngọc Lan, Tình hình tảo hôn ở các tỉnh miền núi cần sớm có giải pháp, Báo dân tộc và Phát triển – cơ quan
ngôn luận của Ủy ban Dân tộc, 04/05/2009;
5
Tại các tỉnh miền núi phía Bắc – nơi tập trung đông đồng bào dân tộc
thiểu số – tỷ lệ tảo hôn khá cao so với cả nước. Theo phong tục của nhiều dân
tộc, khi trẻ em vừa bước sang tuổi 15 - 16 là đã đến tuổi dựng vợ, gả chồng. Cha
mẹ hai bên sẽ làm lễ dạm ngõ rồi kết hôn cho con, hai người trẻ sẽ chính thức
trở thành vợ chồng sau đám cưới. Nếu bị chính quyền địa phương biết và can
thiệp, họ sẵn sàng "xin khất" để tiếp tục làm vợ chồng, đợi đến khi đủ tuổi sẽ
làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Địa phương điển hình của vấn nạn tảo hôn là tỉnh Yên Bái. Theo thống
kê, tỷ lệ tảo hôn của tỉnh Yên Bái nói chung chiếm khoảng 7%, ở các xã vùng
cao trên 20%. Huyện Mù Căng Chải có số vụ tảo hôn cao nhất tỉnh, năm 2011
có 55 trường hợp tảo hôn, trong đó có 79 người vi phạm Luật Hôn nhân và Gia
đình do tuổi kết hôn quá sớm so với quy định
3
. Không riêng gì Mù Căng Chải
mà hầu hết các thôn bản có đông đồng bào sinh sống đều có nạn tảo hôn. Bản
Công là một trong những xã có tỷ lệ tảo hôn cao. Năm 2011, trên địa bàn xã có
22 cặp kết hôn thì đã có tới 19 cặp tảo hôn và đầu năm 2012, xã có 17 cặp kết
hôn thì có 12 cặp tảo hôn. Điều đáng nói là nhiều trường hợp tảo hôn xảy ra ở
con cháu ruột của cán bộ các ban, ngành và đảng viên ở xã.
Ở Sơn La, nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào người Mông, nạn tảo hôn
vẫn chưa được xóa bỏ do vẫn còn tồn tại tục cướp vợ. Nhiều trẻ em mới 12 tuổi
đã được gia đình tổ chức cướp vợ. Qua khảo sát của Ngành tư pháp tỉnh Sơn La
thì có 47.665 trường hợp các cặp vợ chồng sống với nhau mà không đăng ký kết
hôn (phần lớn là tảo hôn); 101.036 trường hợp trẻ em ra đời đã lớn nhưng chưa

Thứ nhất, với gia đình, sau khi lấy nhau, hầu hết các đôi vợ chồng này
thường chưa thể sống tự lập vì tuổi còn quá nhỏ, theo pháp luật thì họ còn chưa có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ để tự trang trải cuộc sống gia đình. Những trường
hợp được bố mẹ tách ra ở riêng thường gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống do
chưa có kinh nghiệm về phát triển kinh tế, xây dựng gia đình. Nhiều trường hợp
khi ra ở riêng lại mâu thuẫn, không sống được với nhau dẫn đến ly hôn, gây khó
khăn cho gia đình và chính quyền địa phương. Không chỉ vậy, đa phần trường
hợp tảo hôn đều không có đăng ký kết hôn. Nếu có tranh chấp xảy ra sẽ rất khó
xét xử vì không có căn cứ chứng minh việc kết hôn giữa các cặp vợ chồng.
Thứ hai, với xã hội, khi những cặp vợ chồng này sinh con, do còn trẻ,
chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như kiến thức về cuộc sống nên những đứa trẻ
được sinh ra khó có thể phát triển một cách toàn diện bởi không được chăm sóc
5
Theo trang thông tin của tỉnh Đắk Lắk:
7
đầy đủ, chu đáo, không được dạy dỗ, học hành tử tế. Điều này đã để lại những
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nòi giống và cuộc sống của người dân
cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội. Những đứa trẻ này sẽ rất dễ đi theo “vết
xe đổ” của cha mẹ, góp phần khiến dân số Việt Nam gia tăng nhanh chóng và
tạo thêm sức ép về dân số, việc làm cho xã hội.
Thứ ba, với các cơ quan chính quyền địa phương, nạn tảo hôn sẽ khiến
cho các cơ quan chính quyền gặp khó khăn trong công tác quản lý dân số, trong
quá trình thực hiện và phát triển các chính sách kinh tế - xã hội ở địa phương.
3. NGUYÊN NHÂN CỦA NẠN TẢO HÔN
Từ thực trạng về tình hình tảo hôn, ta nhận thấy rằng có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân quan trọng nhất
dẫn đến việc bùng nổ tảo hôn ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do ảnh hưởng của những quan niệm, thành kiến, phong tục tập

kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó;
b) Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn”.
Việc quy định hình thức xử phạt đối với hành vi tảo hôn hoặc tổ chức tảo
hôn chỉ là phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng dường như còn chưa phù
hợp, không đủ răn đe với nạn tảo hôn ở nước ta hiện nay. Với đa số những cặp
vợ chồng nghèo, họ sẽ không có khả năng nộp phạt, và trong trường hợp đó, khả
năng thực hiện các biện pháp cưỡng chế nộp phạt của chính quyền địa phương là
điều không thể thực hiện được. Do không có hình thức chế tài nào khác nên các
cặp vợ chồng nghèo vẫn tự do kết hôn khi chưa đủ tuổi mà không lo bị xử phạt.
Ngoài ra cũng có không ít cặp tảo hôn sẵn sàng lên xã nộp phạt. Họ coi việc nộp
phạt là đã tuân thủ pháp luật và sau khi nộp phạt thì họ đương nhiên được xã
công nhận là vợ chồng theo pháp luật.
9
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như các gia đình ở Việt Nam, đặc
biệt là ở các tỉnh miền núi còn chưa được quan tâm đúng mức; công tác giáo dục
giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên còn ít, mới chỉ dừng lại ở các thành phố
lớn. Mặt khác, một số gia đình mải làm ăn, không quan tâm đến sự phát triển tâm
lý cũng như thể chất của con em mình, hay một số gia đình bố mẹ ly hôn, cãi
nhau tạo tâm lý chán chường, bất cần, buông thả ở một bộ phận thanh niên. Vì
vậy, nhiều em đã làm cha, làm mẹ khi đang độ tuổi vị thành niên.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân còn hạn
chế. Trình độ dân trí thấp kém kéo theo bao hậu quả như các tệ nạn xã hội phát
triển và một trong số đó là nạn tảo hôn cũng bùng nổ.
Thứ hai, do công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật tại nhiều địa
phương còn chưa sâu sắc, hạn chế. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người
dân là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là
công tác tuyên truyền về vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình. Nhưng công tác
tuyên truyền gặp nhiều khó khăn, trở ngại bởi dân trí phân cư không đồng đều
và sự chênh lệch về nhận thức của họ gặp nhiều khó khăn, ở những nơi dân tộc

tham gia tuyên truyền, vận động các chính sách dân số gia đình và trẻ em qua
nhiều hình thức như truyền thông đại chúng, tuyên truyền trực tiếp qua các hội
nghị của các ngành, đoàn thể các cấp, đồng thời tăng cường hoạt động của đội
ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở.
Thứ hai, phải nâng cao trình độ dân trí cũng như ý thức pháp luật cho
người dân. Đây là một giải pháp vừa quan trọng vừa khó khăn nhất. Mọi hủ tục
lạc hậu đều xuất phát từ sự kém hiểu biết, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu vùng
xa, nơi mà tình trạng tảo hôn là phổ biến. Cần có sự tuyên truyền nhận thức mới,
xóa bỏ những hủ tục, nếp sống không văn minh, phổ cập, giáo dục kiến thức
khoa học, giới tính mà cụ thể là các tác động xấu của việc tảo hôn, kết hôn chưa
11
đên tuổi pháp luật quy định. Công tác này rất khó khăn và đòi hỏi sự kiên trì,
phối hợp của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương bởi lẽ, các hủ
tục này đã ăn sâu vào đời sống tinh thần hàng ngày của người dân bản địa.
4.2. Nâng cao trách nhiệm của chính quyền trong quá trình quản lý
Với vai trò thực hiện pháp luật trong đời sống, các cơ quan chính quyền
địa phương có nhiệm vụ rất quan trọng trong vấn đề bài trừ nạn tảo hôn tại địa
phương mình. Do đó, thứ nhất, cần có sự chỉ đạo sát sao hơn nữa, quan tâm hơn
nữa của các cấp chính quyền trong việc phổ cập kiến thức về hôn nhân và gia
đình cũng như giám sát việc thực hiện các công tác về truyên truyền kiến thức.
Đưa mục tiêu về hôn nhân và gia đình vào chương trình, kế hoạch hoạt động của
chính quyền và các đoàn thể ở địa phương hàng năm.
Thứ hai, cần quan tâm tới công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ, nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo dân số gia đình và trẻ em cấp huyện. Với các chức danh
lãnh đạo cần lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh vững
vàng để tránh trường hợp họ vì lợi ích kinh tế mà tiếp tay cho nạn tảo hôn diễn
ra tại địa phương mình.
Thứ ba, cần phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với nhau, giữa các
cấp với nhau trong công cuộc đẩy lùi hủ tục, thực hiện nếp sống văn minh, lành
mạnh, tiến bộ.

Thứ hai, phải bảo đảm cho tất cả gia đình dân tộc thiểu số có đất sản xuất
và việc làm. Góp phần hiệu quả cho công tác xoá đói giảm nghèo; nâng cao
nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác hướng nghiệp trong các trường phổ thông,
phát triển các trường dạy nghề cho thanh thiếu niên bước vào tuổi lao động phù
hợp yêu cầu phát triển của từng vùng, từ đó có cơ sở tạo việc làm, nghề nghiệp ổn
định cuộc sống.
4.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung
và những quy định về vấn đề tảo hôn nói riêng
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn.
6
Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;
13
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, độ tuổi kết hôn của
nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên (chứ không phải từ đủ
mười tám tuổi trở lên). Tuy nhiên, đối chiếu theo quy định của một số ngành
luật liên quan thì quy định này chưa có sự thống nhất. Theo quy định của Bộ
luật Dân sự , nhiều giao dịch đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải là người có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự, tức là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự, cá nhân phải đủ mười tám tuổi trở lên mới
có thể tự mình là chủ thể của quan hệ tố tụng. Trong khi đó, theo Luật Hôn nhân
và Gia đình 2000, nữ bước sang tuổi mười tám kết hôn được coi là hợp pháp và
họ được quyền tự do ly hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không thể
thực hiện nếu sau khi kết hôn đến thời điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ mười
tám tuổi.
Do đó, để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với quy định của các văn bản
pháp luật khác, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có
liên quan, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cần sửa đổi quy định độ tuổi kết hôn
của nam, nữ ít nhất phải từ đủ mười tám tuổi trở lên. Như thế mới thật sự đảm
bảo về khả năng đảm đương trách nhiệm làm vợ chồng, làm cha mẹ của các cặp

đề thuận lợi để phát triển đất nước nói chung và thực hiện mục tiêu xây dựng
đời sống văn hoá mới, xây dựng gia đình mới hiện đại. Để làm được điều đó cần
phải có sự quan tâm của toàn xã hội, của Đảng và nhà nước, của các cấp các
ngành, trong đó đặc biệt chú ý tới vấn đề giáo dục, tuyên truyền để thay đổi
nhận thức của mỗi cá nhân về tảo hôn và trách nhiệm của mỗi người trong cuộc
đấu tranh đẩy lùi và loại bỏ triệt để nạn tảo hôn khỏi đời sống xã hội.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2011;
2. Đoàn Thị Thu Hằng, Khóa luận tốt nghiệp: Vấn đề tảo hôn ở Việt Nam
hiện nay - nguyên nhân và giải pháp loại trừ, trường Đại Học Luật Hà Nội,
2010;
3. Ngọc Lan, Tình hình tảo hôn ở các tỉnh miền núi cần sớm có giải pháp,
Báo dân tộc và Phát triển – cơ quan ngôn luận của Ủy ban Dân tộc ngày
04/05/2009;
4. Hà An, Cần sửa những quy định về độ tuổi kết hôn và hình thức xử phạt
khi vi phạm độ tuổi kết hôn, báo Công an Nhân dân ngày 19/08/2005;
5. Sơn Tùng, Tảo hôn – vấn đề nhức nhối tại Yên Bái và những giải pháp,
Báo Yên Bái Online ngày 01/09/2007;
6. Mai Tâm, Nạn tảo hôn ở Sơn La: Những điều vui buồn, Báo Công an Nhân
dân điện tử, 26/08/2012;
7. Huy Anh, Đừng bắt trẻ con sớm thành người lớn, bài viết trên trang
baomoi.com ngày 05/05/2012;
8. Nguyễn Đức Hưng, Trao đổi về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân;
16
9. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000;
10. Bộ luật Dân sự năm 2005;


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status