Bảo hiểm xã hội Hà Tây – Thực Trạng và Giải Pháp - pdf 14

Download miễn phí Đề tài Bảo hiểm xã hội Hà Tây – Thực Trạng và Giải Pháp



Mục lục
 
Lời nói đầu
I. Lý luận chung về BHXH
1. Sự cần thiết của BHXH
2. Khái niệm, nội dung và tính chất của BHXH
3. Vai trò của BHXH
4. Quá trình hình thành và phát triển BHXH.
II. Thực trạng của BHXH Hà Tây trong những năm gần đây.
1. Giới thiệu chung về BHXH Hà Tây.
1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây
1.2 Giới thiệu khái quát về BHXH Hà Tây.
2. Thực trạng của BHXH Hà Tây trong những năm gần đây.
2.1 Công tác thu BHXH.
2.2 Công tác chi trả BHXH.
2.3 Công tác chế độ chính sách.
2.4 Công tác kiểm tra.
2.5 Công tác tuyên truyền.
III. Một số giải pháp và kiến nghị đối với BHXH Hà Tây.
1. Định phát triển của BHXH Hà Tây trong những năm tới
2. Các giải pháp
2.1 Công tác thu BHXH.
2.2 Công tác chi trả BHXH.
2.3 Công tác chế độ chính sách.
2.4 Công tác kiểm tra.
2.5 Công tác tuyên truyền.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

dân nói chung.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại theo chiều ngang giữa người khoẻ và người già, người đang làm việc và người đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi và người lớn tuổi, giữa nam và nữ, người đang hưởng trợ cấp và người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều dọc là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người cùng kiệt một cách võ đoán. ý tưởng của BHXH là nhiễu điều phủ lấy giá gương, là đoàn kết giữa các nhóm, các giới hạn trong cùng cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh.
4. Quá trình hình thành và phát triển BHXH.
4.1. Sự hình thành và phát triển BHXH trên thế giới.
Ngay từ thời xa xưa, thời cổ đại con người đã biết vừa tự lực vừa biết kết hợp đoàn thể để đi săn bắn, lao động để kiếm sống, vật lộn với thiên nhiên. Khi gặp rủi ro tai biến họ vừa tự mình chịu đựng, khắc phục vừa được các thành viên trong cộng đồng hỗ trợ cưu mang. Ở thời đó sự tương trợ mang tính tự phát, theo bản năng và mới được thực hiện trong phạm vi nhỏ (trong cộng đồng, bộ tộc, bộ lạc).
Đến giai đoạn có sự phân công lao động sản xuất xã hội phát triển, quan hệ xã hội càng trở nên phức tạp, quan hệ tác động giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng trở nên đa dạng hơn. Tôn giáo xuất hiện, các thánh địa, hội nhà chùa, hội nhà thờ, trại bảo dưỡng được thiết lập, trong đó có mục đích từ thiện, trợ giúp tín đồ, các con chiên gặp khó khăn, nghịch cảnh, mà trước hết là người nghèo, trẻ mồ côi. Đối với bản thân mình cha ông ta đã tự chủ là "tích thóc đề phòng thiếu thốn, trữ áo bông khi giá lạnh". Trong quan hệ xã hội nhiều tổ chức hoạt động nhân ái mang tính chất tự nguyện tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc gặp rủi ro, tai biến được hình thành một cách tự phát và ngày càng phát triển. Chính những hoạt động này đã thức tỉnh tính bản thiện trong các nhà cầm quyền và hơn thế nữa cũng là lợi ích của chính giai cấp mình là để ngăn chặn những rối loạn xã hội có thể nảy sinh do cuộc sống của con người lao động bị lâm vào cảnh khốn cùng, làm lung lay địa vị thống trị của mình, không ít vua quan đã tham gia hoạt động từ thiện trích công quỹ để tế bần, phát trần cho những người túng đói.
Khi ngành công nghiệp hình thành, hàng loạt dân nông thôn di cư từ nông thôn ra thành thị, Trong khoảng thể kỷ XVI - XVIII một số đoàn thợ thủ công ra đời. Tính đoàn kết tương thân giữa những người làm thuê nảy nở dần. Ở một số Châu Âu, trong thời kỳ này có khá nhiều quỹ tương trợ được thành lập, ở Anh 1973 có hội "Bằng Hữu" giúp trợ hội viên trong các trường hợp ốm đau, thương tật.
Đặc biệt, khi giai đoạn công nghiệp phát triển, số công nhân công nghiệp đông dần. Giai cấp công nhân công nghiệp gồm những thị dân, dân nông thôn thoát ly nông nghiệp, từ những người sản xuất tự cấp tự túc thành những người làm công ăn lương, dựa vào lương là nguồn sống chủ yếu. Có làm việc thì mới có lương để sống dù đồng lương là ít hay nhiều. Nếu ốm đau, thương tật, thai sản phải nghỉ việc mà không có lương nghĩa là cuộc sống của họ lập tức bị đe doạ.
Đến giai cấp này, những rủi ro, tai biến đe doạ người công nhân không chỉ là sinh bệnh, tử mà không ai thoát khỏi trong đời thường, những rủi ro, tai biến còn là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp. Để giảm tối thiểu nỗi âu lo của người làm công ăn lương, nhiều hệ thống trợ giúp xã hội nối tiếp nhau ra đời, bên cạnh những khoản tiền khiêm tốn của hội tương tế, còn có những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người thuộc quyền quản lý khi họ bị ốm đau, tai nạn lao động.
Đáng chú ý là trong quá trình phát triển, trước cục diện mới, giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội của các quốc gia. Chính phủ các nước, nhất là các nước công nghiệp, không thể quan tâm đến tình cảnh của người lao động. Họ buộc phải từng bước cải thiện điều kiện lao động, rút ngắn thời gian làm việc, có chế độ thích hợp hơn để tỏ ra có chăm sóc đến đời sống của người lao động. Điển hình là năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bis -Mắc, nhiều bang của nước Đức đã giúp đỡ các địa phương lập quỹ bảo hiểm ốm đau, do các công nhân phải đóng tiền để bảo hiểm. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc chính là bắt nguồn từ đây và người được bảo hiểm phải đóng bảo hiểm.
Chế độ ốm đau được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883, do các hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884 xuất hiện các chế độ bảo hiểm về rủi ro nghề nghiệp do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889 lại xuất hiện chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các tỉnh quản lý.
Trong khoảng từ năm 1883 đến năm 1884, một hệ thống bảo hiểm xã hội lớn đầu tiên ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo nguyên tắc người được hưởng bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm xã hội và 3 thành viên của của xã hội là: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều có vị trí trong việc quản lý hệ thống Bảo hiểm xã hội. Từ đó nhiều nước đã sử dụng cơ chế này trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội của nước mình.
Sáng kiến về bảo hiểm xã hội của chính quyền Bis- Mac được nhiều nước Châu Âu chấp nhận. Từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX liên tiếp các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canada đều áp dụng; từ sau đại chiến thế giới thứ II và sau khi giành được độc lập nhiều nước Châu Phi, Châu Á và vùng Caribê cũng lần lượt áp dụng cơ chế bảo hiểm xã hội tương tự. Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng các nước áp dụng cơ chế bảo hiểm xã hội chủ yếu là áp dụng các đặc trưng có sự đóng bảo hiểm xã hội của những người được bảo hiểm. Còn về chế độ phụ cấp thì cụ thể mỗi nước tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội cụ thể và truyền thống riêng của nước mình để thêm bớt, không máy móc sao chép những chế độ của nước này, nước khác.
Có thể nói bảo hiểm xã hội được hình thành và phát triển gắn liền với sự phân công lao động xã hội à sự phát triển của ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp công nhân nhận lương trong các xí nghiệp công nghiệp sống hoàn toàn dựa vào tiền lương. Khi họ gặp rủi ro trong quá trình lao động như ốm đau, tai nạn lao động, thai sản thì ngay lập tức cuộc sống của họ bị đe doạ. Điều này nếu không được các giới chủ sử dụng lao động quan tâm sẽ làm cho quan hệ giữa chủ và thợ vốn đã được căng thẳng và có thể là nguyên nhân của của các cuộc bãi công biểu tình. Để hài hoà mối quan hệ này thì việc hình thành bảo hiểm xã hội là tất yếu.
4.2. Quá trình hình thành và phát triển BHXH tại Việt nam:
Việt nam c...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status