Quan niệm của nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình việt nam hiện nay - Pdf 10

Quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay Đặng Thị Hồng Hạnh Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS. ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Lan
Năm bảo vệ: 2012 Abstract. Tìm hiểu một cách có hệ thống quan niệm Nho giáo về gia đình. Phân tích
nội dung của quan niệm đó để thấy được những giá trị và hạn chế của nó. Đánh giá
những ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình truyền thống Việt Nam
trong lịch sử. Từ đó chỉ ra được ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình Việt
Nam hiện nay.

Keywords. Triết học phương Đông; Nho giáo; Gia đình; Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức được giai cấp phong kiến Trung Quốc lấy
làm hệ tư tưởng thống trị. Khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo cũng được giai cấp phong
kiến Việt Nam sử dụng làm hệ tư tưởng thống trị và có ảnh hưởng to lớn, lâu dài đến mọi mặt
đời sống của dân tộc ta. Trong đó, quan niệm và khuôn mẫu của Nho giáo về gia đình với
những yêu cầu chặt chẽ về đạo đức thực sự có tác dụng xây dựng và giữ gìn nền nếp của các

trật tự gia đình cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ… cũng trở nên ngày một
mạnh mẽ.
Trước thực trạng trên, nhiều vấn đề bức thiết về gia đình đang được đặt ra như: “Gia đình
Việt Nam sẽ biến đổi ra sao và có vai trò như thế nào trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước?”; “Những gì đã và đang diễn ra đối với các nước phương Tây có phải là hình
ảnh tương lai của gia đình Việt Nam hay không?”; “Làm thế nào để có sự đánh giá đúng đắn
học thuyết Nho giáo về vấn đề gia đình?”… Nhiều nghiên cứu gần đây đã khẳng định đạo
đức gia đình Nho giáo vẫn còn nhiều điều hữu ích mà ta đã vội lãng quên hoặc bỏ đi rất cần
được nuôi dưỡng trở lại để giáo dưỡng trẻ thơ, tạo dựng gia đình nề nếp, góp phần làm lành
mạnh xã hội.
Như vậy, một hiện thực là cho đến nay, chúng ta chưa có sự thống nhất trong việc đánh
giá học thuyết Nho giáo về vấn đề gia đình. Đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều đề tài nghiên
cứu về Nho giáo, về gia đình ở những khía cạnh khác nhau một cách chuyên sâu nhưng đời
sống hiện thực đòi hỏi chúng ta phải đánh giá một cách toàn diện và khoa học quan niệm của
Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, chúng tôi chọn đề tài: “Quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của
nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay” nhằm làm sáng tỏ vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan niệm về gia đình là một bộ phận của học thuyết Nho giáo vì vậy các công trình
nghiên cứu về Nho giáo đều ít nhiều bàn đến vấn đề này. Tuy nhiên có nhiều cách nhìn nhận
khác nhau, có thể khái quát thành 2 khuynh hướng chính sau:
Khuynh hướng thứ nhất: Phủ nhận giá trị của học thuyết Nho giáo nói chung với xã hội
mới, trong đó có quan niệm về gia đình. Khuynh hướng này là phổ biến trước thời kỳ đổi mới
Khuynh hướng thứ hai: Cho rằng Nho giáo có những mặt tích cực và hạn chế nên cần
thiết phải phê phán, lọc bỏ những hạn chế và kế thừa phát huy những hạt nhân hợp lý trong
quá trình xây dựng xã hội mới. Khuynh hướng này đã xuất hiện từ lâu nhưng chỉ trở nên phổ
biến từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới. Điều này được thể hiện khá rõ trong: “Nho
giáo ở Việt Nam” (GS. Vũ Khiêu), “Nho giáo xưa và nay” (Quang Đạm), “Đến hiện đại từ
truyền thống” (GS. Trần Đình Hượu),… và một số bài viết trên các tạp chí.
Như vậy, nghiên cứu về Nho giáo và gia đình không phải là lĩnh vực mới, có thể kể đến

Vũ Khiêu.
- “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản Văn hoá - Hà
Nội (1995).
Về gia đình, tiêu biểu là đề tài: “Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam” (Mã số KX 07-09) thuộc chương trình Khoa học Công nghệ
Nhà nước: “Con người Việt Nam: mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội (Mã số KX
07) do GS Lê Thi làm chủ nhiệm đề tài.
- “Gia đình Việt Nam thời mở cửa” - Nguyễn Thị Oanh - Nhà xuất bản Trẻ (1998).
- Hội thảo khoa học: “Gia đình Việt Nam, các nguồn lực, các trách nhiệm trong sự đổi
mới của đất nước và vấn đề xây dựng con người do Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ
nữ tổ chức tháng 4 năm 1995.
Bên cạnh đó, nhiều luận án tiến sỹ cũng bàn về Nho giáo và gia đình ở những khía cạnh
khác nhau, tiêu biểu là:
- “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với
xã hội ta ngày nay” - Luận án Tiến sỹ Triết học: 5.01.01/Nguyễn Văn Bình - H, 2001 (Thư
viện quốc gia).
- “Quan niệm Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó với việc giáo dục con
người ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận án Tiến sỹ Triết học:
5.01.02/Nguyễn Thị Nga - H, 1999 (Thư viện quốc gia).
- “Quan niệm Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người” - Luận án Tiến
sỹ Triết học: 62.22.80.01/Nguyễn Thị Tuyết Mai - H, 2005 (Thư viện quốc gia).
- “Sự biến đổi chức năng xã hội hoá của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại”
- Luận án Phó tiến sỹ khoa học kinh tế: 5.01.09/Lê Ngọc Văn (Thư viện quốc gia).
- “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay” - Luận án Tiến sỹ Triết học:
5.01.03/Dương Thị Minh - H, 2003 (Thư viện quốc gia).
Ngoài ra, các tạp chí: Lý luận chính trị, Nghiên cứu lý luận, Triết học, Hán Nôm, Xưa và
nay, Đông Nam Á… cũng có nhiều bài viết phản ánh những khía cạnh khác nhau về Nho
giáo, gia đình và ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình Việt Nam hiện nay,
tiêu biểu là:
- Nguyễn Đình Chú “Hiện nay với Nho giáo” - Tạp chí Hán Nôm số 1/2005.

đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của luận văn
là những nội dung tư tưởng của Nho giáo bàn về gia đình và những quy tắc trong quan hệ gia
đình, những quan niệm cơ bản về gia đình của xã hội phong kiến, những quan điểm của Nhà
nước ta về gia đình thông qua các văn kiện của Đảng. Ngoài những tư liệu chính yếu đó, các
quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề trên cũng là đối tượng tham
khảo của luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước là kim chỉ nam cho việc phân
tích, đánh giá những quan niệm của Nho giáo về gia đình và mức độ ảnh hưởng của nó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, theo quan điểm lịch sử - cụ thể
của khoa học lịch sử triết học để nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương
pháp khác như: hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp… nhằm tái hiện lại một cách chân thực
và đánh giá khách quan những quan niệm của Nho giáo về gia đình.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào việc hệ thống hóa quan niệm của Nho giáo về gia đình, chỉ ra ảnh
hưởng và ý nghĩa của nó đối với gia đình Việt Nam hiện nay. Từ đó, luận văn góp phần vào
việc xây dựng một quan niệm đúng đắn về gia đình và làm lành mạnh hoá các quan hệ trong
gia đình theo yêu cầu đạo đức mới trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc kế thừa, phát huy những
giá trị tích cực của Nho giáo về gia đình trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập môn Lịch sử triết học Phương Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 2 chương, 4
tiết:
Chương 1. Quan niệm của Nho giáo về gia đình.
Chương 2. Ý nghĩa của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình

cảm và đức tính tốt trong gia đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt
trong đạo thờ vua, trị nước.
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa những thành
viên trong cùng một gia đình, một dòng họ. Nho giáo kêu gọi họ yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống của gia đình, của dòng
họ.
Gia đình trở thành hòn đá tảng của lâu đài phong kiến. Từ đạo đức trong gia đình đến
chính trị ngoài xã hội đều có liên quan đến nhau.
Có thể nói, toàn bộ giáo dục gia đình theo Nho giáo nhằm tạo nên “phụ phụ tử tử, huynh
huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối quan hệ cha con, anh
em ấy thì “phụ từ tử hiếu, huynh lương đệ đễ” (cha nhân từ, con có hiếu, anh rộng lượng, em
kính trọng). Như vậy, Khổng Tử và các nhà Nho thời Tiên Tần đã đề ra nghĩa vụ, bổn phận
đạo đức từ hai phía, có đi có lại. Tư tưởng ấy càng được Nho giáo suy tôn và củng cố bền
vững bằng những thuyết giáo về mặt tình cảm, huyết thống và bằng sự nối liền hai chữ Hiếu -
Trung.
Tóm lại, Nho giáo thời Tiên Tần rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo Hiếu trong gia đình.
Bởi lẽ, trong các phạm trù đạo đức của Nho giáo thì Nhân giữ vai trò là trung tâm. Từ Nhân mà
phát sinh ra các đức khác và các đức khác bị quy tụ cả về với nó. Nhân có nội dung phong phú,
nghĩa sâu rộng nhưng nghĩa chính là lòng thương người. Nhưng lòng thương người phải được
thể hiện trước hết từ trong phạm vi gia đình, sau đó mới mở rộng ra họ hàng, làng, nước. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều đòi hỏi nghĩa vụ đạo đức trong gia đình phải mang
tính hai chiều. Bề trên phải gương mẫu, làm gương tốt cho kẻ dưới, kẻ dưới phải có bổn phận,
nghĩa vụ đối với người trên. Ví dụ, trong quan hệ cha - con thì cha phải hiền từ, con phải hiếu
thảo. Quan hệ cha con yêu cầu cả trách nhiệm làm cha làm mẹ và nghĩa vụ hiếu thảo của con
cái. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, những quan niệm đạo đức gia
đình thời Nho giáo tiên Tần cũng có nhiều thay đổi.
1.1.2. Sự phát triển của quan niệm Nho giáo về gia đình
Do sự vận động và phát triển của chế độ phong kiến Trung Hoa, cùng với yêu cầu củng
cố và phát triển nền chính trị phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế, quan niệm của
Nho giáo về gia đình cũng có những bước phát triển mới. Điển hình là quan niệm về gia đình,

đình (nam tôn nữ ti). Từ tôn ti trật tự gia đình mở rộng tới tộc họ rồi tới quốc gia là theo một
trật tự như nhau, khiến cho sự ổn định, trật tự trong quan hệ gia đình đảm bảo cho sự ổn định,
trật tự trong quan hệ xã hội của một xã hội theo Nho giáo.
1.2.2. Gia đạo và các chuẩn mực đạo đức
Đạo cha - con
Đây là mối quan hệ cụ thể gần gũi nhất của bất kỳ gia đình nào trong xã hội.
Đạo hiếu, vấn đề nhớ ơn tổ tiên
Bàn về đạo hiếu, Khổng Tử nói nhiều, và tuy nội dung còn giản dị, mộc mạc, nhưng ý
nghĩa rất sâu sắc. Đến Mạnh Tử và chính Tăng Tử mới là người phát triển nội dung đạo hiếu
một cách cụ thể và cặn kẽ.
Hiếu là đạo ứng xử của con cái đối với cha mẹ, đồng thời là đạo ứng xử đối với các thế hệ
bề trên trong gia đình.
Tóm lại, trong Nho giáo, Đạo hiếu và vấn đề nhớ ơn tổ tiên có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Làm người con có hiếu không chỉ biết đối xử đúng mực với ông bà, cha mẹ khi còn
sống mà cả khi qua đời; biết lo ma chay chu đáo, trang trọng, giữ gìn trông nom cho mồ yên
mả đẹp; lo tổ chức cúng giỗ tổ tiên đầy đủ, đàng hoàng; ghi nhớ công ơn của ông bà, cha
mẹ,… Chính lòng hiếu thảo sẽ giúp con người trong sáng, đẹp đẽ, thanh cao hơn; biết sống
đẹp, sống tốt giữa cuộc đời và thực sự trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội.
Đạo chồng - vợ
Cuộc sống vợ chồng là sự bắt đầu của cuộc sống gia đình, là cơ sở rất quan trọng cho sự
phát triển của xã hội. Quan hệ này là trung tâm của ngũ luân, là nền tảng của các mối quan hệ
xã hội khác vì có vợ chồng mới sinh con đẻ cái, hình thành quan hệ cha con, anh em… từ đó
mở rộng ra ngoài hình thành các mối quan hệ họ hàng, vua tôi và bạn hữu. Trong quan hệ vợ
chồng các nhà nho đặc biệt đề cao vai trò của người chồng, người được coi là người chủ gia
đình, là trụ cột trong gia đình và xã hội, hạ thấp vai trò của người vợ, vì vậy người vợ luôn ở
địa vị phụ thuộc, không có vai trò độc lập.
Đạo anh - em
Khổng Tử, Mạnh Tử và các nhà nho đều cho rằng anh em ruột thịt trong một nhà phải
yêu thương nhau, có thứ tự trên dưới, có trước có sau: “anh nên anh, em nên em”, “trưởng ấu
hữu tự”, “huynh đệ tương thân”. Họ yêu cầu “làm em mộ nhân nghĩa nên thờ anh”, anh bảo

hội trước đây.
Có thể thấy rằng vị trí của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam là một vấn đề có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với việc nghiên cứu truyền thống tư tưởng của dân
tộc cũng như sự ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam, đối với gia đình Việt Nam. Việc
xem xét một cách khách quan những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của Nho giáo đối với gia
đình truyền thống Việt Nam là cơ sở cho việc kế thừa và phát huy những giá trị của Nho giáo
đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại.
2.1.1. Ảnh hưởng tích cực
Trước hết cần thấy rằng trong lịch sử dân tộc, khi chiếm được địa vị quan trọng trong hệ
tư tưởng dân tộc, Nho giáo đã thể hiện rõ vai trò can thiệp vào cơ cấu xã hội phong kiến từ
Trung ương đến địa phương.
Nho giáo vào Việt Nam đề cao chữ Hiếu, đề cao lễ nghĩa, tiết hạnh, bảo vệ gia đình, gia
tộc, tông tộc.
Trong hôn nhân, bộ luật đề cao tình nghĩa vợ chồng, không cho phép bội ước sau khi kết
hôn, bảo vệ quyền lợi vật chất cũng như tinh thần của người phụ nữ.
Nho giáo coi trọng nguồn gốc, dòng giống, coi gia đình gắn chặt với họ hàng, coi tuyệt tự,
mất dòng giống là tội lỗi với tổ tiên, là sự bất hạnh lớn nhất. Xây dựng gia đình êm ấm không
chỉ là để cho bản thân và các thành viên khác có hạnh phúc mà còn là việc quan trọng để xây
dựng xã hội.
Có thể nói Nho giáo đề cao gia đình hơn bất cứ một học thuyết nào khác. Quan hệ gia
đình theo Nho giáo là quan hệ đặc biệt chặt chẽ, phải được tái sinh, tái lập, và mở rộng, theo
trách nhiệm nghĩa vụ, và đồng thời giữ gìn trật tự kỷ cương, Ngũ luân là “quân thần hữu
nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, huynh đệ hữu cung, bằng hữu hữu tín”. Đó là
nguyên tắc, nguyên lý bất dịch; cũng như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là ngũ thường không thay
đổi.
2.1.2. Những mặt hạn chế
Có thể nói rằng trong xã hội phong kiến Việt Nam với nền sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự
cấp, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín… nên trách nhiệm của gia đình đối với
việc tái tạo sức lao động, truyền thụ kinh nghiệm, giáo dục, sinh hoạt văn hóa là rất lớn.
Nguyên tắc tôn ti trật tự được giai cấp phong kiến sử dụng triệt để trong việc phân định các

2.2.1.2. Một số đặc điểm của gia đình ở Việt Nam hiện nay
Cùng với sự biến đổi của xã hội, gia đình Việt Nam cũng đang trải qua những biến động
lớn. Trên cơ sở khái quát những đặc điểm của gia đình Việt Nam hiện nay sẽ có phương
hướng kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực của gia đình truyền thống cho phù hợp với
điều kiện lịch sử mới.
* Đặc điểm 1: Hôn nhân vẫn luôn được coi trọng
Đặc điểm 2: Số lượng gia đình hạt nhân tăng nhanh
Số lượng gia đình Việt Nam hiện nay đang tăng rất nhanh năm 1979 mới chỉ có 9,7 triệu
hộ, năm 1989 lên tới gần 13 triệu hộ và hiện nay khoảng 20 triệu hộ. Số lượng gia đình tăng
nhanh như vậy là do rất nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ trực tiếp nhất là quá trình hạt nhân
hoá gia đình đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này có thể được giải thích qua một số nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, do điều kiện xã hội trong những năm gần đây thay đổi nhanh chóng, nhiều gia
đình đã có điều kiện kinh tế để xây dựng nhà riêng.
Thứ hai, do chính sách chia ruộng đất và di dân đi các vùng kinh tế mới của Đảng trong
quá trình đổi mới.
Thứ ba, do tâm lý của thế hệ trẻ ngày nay khi xây dựng gia đình thường muốn ra ở riêng,
độc lập với bố mẹ để tự do làm ăn kinh tế.
Đặc điểm 3: Việc thực hiện các chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay có nhiều biến
đổi
Thứ nhất: Chức năng tái sản xuất con người.
Thứ hai: Chức năng kinh tế
Thứ ba: Chức năng giáo dục
Thứ tư: chức năng tiêu dùng
Thứ năm: Chức năng cân bằng tâm sinh lý.
2.2.1.3. Một số vấn đề đặt ra
Trước hết, trong lĩnh vực hôn nhân của đời sống gia đình đã xuất hiện những hiện tượng
hôn nhân không dựa trên tình yêu chân chính.
Thứ hai, cần phải kể đến quy mô gia đình Việt Nam còn lớn và tỷ lệ sinh hiện nay vẫn
còn ở mức cao.

chúng ta sẽ có thái độ đối xử hợp lý với di sản Nho giáo, là cơ sở để xây dựng gia đình Việt
Nam hiện đại. Cụ thể là, một mặt, cần khắc phục triệt để những hạn chế của nó, mặt khác cần
chỉ rõ những hạt nhân hợp lý để kế thừa và phát huy trong điều kiện xã hội mới, đó là cách
làm hoàn toàn biện chứng và khoa học.

KẾT LUẬN
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước
Công nguyên với vai trò sáng lập của Khổng Tử (551-479 TrCN) và được bổ sung, hoàn hiện
qua nhiều giai đoạn lịch sử Trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu hơn
cả là dưới triều đại nhà Hán và Tống. Do Nho giáo đáp ứng được yêu cầu của trật tự xã hội
và các tập đoàn phong kiến thống trị nên đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của bao triều
đại phong kiến Trung Quốc cũng như nhiều nước Phương Đông trong hàng ngàn năm lịch sử.
Nho giáo chủ yếu bàn về chính trị, luân lý, đạo đức. Khi vào Việt Nam, Nho giáo đã có ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt. Trên chặng đường dài của lịch sử dân
tộc, có lúc Nho giáo giữ vai trò thúc đẩy, có lúc nó kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá,
chính trị của con người Việt Nam. Nhưng dù thúc đẩy hay kìm hãm, nó đều góp phần làm
nên truyền thống tư tưởng, văn hoá dân tộc; góp phần vào bước tiến của xã hội và con người
Việt Nam. Quan niệm về gia đình của Nho giáo là một trong những vấn rất cơ bản và khá
quan trọng, nội dung của nó có sự thay đổi theo sự vận động của xã hội. Điều này dễ nhận
thấy là quan niện về gia đình và những mối quan hệ trong gia đình thời kỳ Khổng - Mạnh còn
mang nhiều giá trị hợp lý nhất định, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo thì đến các triều đại
Hán, Tống, về sau, những phần tiêu cực, lạc hậu lại được khuếch trương nhằm phục vụ trực
tiếp cho chế độ phong kiến tập quyền đương đại.
Có thể nói, Nho giáo là một học thuyết chuộng gốc, nhớ nguồn nên rất coi trọng vấn đề
gia đình và giáo dục trong gia đình nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng “Đại đồng”. Từ mục
đích đó, Nho giáo đã nêu cao vai trò của việc giáo dục con người tuân theo những chuẩn mực
xã hội. Mặt khác, gia đình lại là một tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời
người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách nên giáo dục đạo
đức trong gia đình theo những chuẩn mực của Nho giáo có những yếu tố hợp lý: Nho giáo đã
nêu cao được vai trò tích cực của của các chuẩn mực đạo đức trong gia đình nhằm góp phần

hội. Do đó, đề cao giá trị văn hoá gia đình và xây dựng gia đình văn hoá là mục tiêu vừa có
tính chiến lược, vừa có tính cấp bách trong sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc và phù hợp với quy luật phát
triển tất yếu của xã hội.
Nhận thức được sâu sắc điều đó, hơn lúc nào hết chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến
thiết chế gia đình, xây dựng gia đình Việt Nam xứng đáng là nền tảng của xã hội. Để thực
hiện điều đó không có cách nào khác là chúng ta phải biết kế thừa những giá trị của truyền
thống dân tộc trong đó có ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình. Về điều này,
chúng ta phải học cách kế thừa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng, Hồ Chí Minh là
người thầy vĩ đại trong việc đánh giá cũng như kế thứa những giá trị của Nho giáo. Việc kế
thừa và phát huy hạt nhân hợp lý của Nho giáo luôn gắn liền với tư tưởng sáng tạo, gắn liền
với thực tế tình hình xã hội mới cũng như những yêu cầu xã hội mới. Đó là nguyên tắc không
thể bỏ qua trong quá trình kế thừa những giá trị truyền thống nói chung, quan niệm Nho giáo
về gia đình nói riêng.
Như vậy, qua nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó đối với
việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay, tác giả hy vọng rằng những kết quả trên sẽ có giá
trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong việc phát huy tính tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay theo tiêu
chí: no ấm - bình đẳng - tiến bộ - hạnh phúc, góp phần định hướng giá trị trong quá trình
chuyển đổi từ xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với
việc phát huy vai trò động lực của gia đình Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá hiện nay. References
1. Lê Ngọc Anh (2002), “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp sống văn hoá gia đình truyền
thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1).
2. Lê Ngọc Anh (2004), ““Nhân” trong Luận ngữ của Khổng Tử”, Tạp chí Triết học,
(11).
3. Minh Anh (2004), “Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo”, Tạp chí Triết học,

20. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đề tài KX 07-79 (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
26. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Lã Minh Hằng (2007), “Bàn về công, dung, ngôn, hạnh trong các sách gia huấn nôm”,
Tạp chí Hán Nôm.
28. Trương Mỹ Hoa (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, NXb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Ngô Công Hoàn (1993), Tâm lý học gia đình, Trường Đại học sư phạm Hà Nội I.
30. Tử Hoàn (2004), “Nho giáo với gia đình truyền thống”, Tạp chí Đông Nam Á, (12).
31. Khuất Thu Hồng (1996), Gia đình truyền thống - Một số tư liệu nghiên cứu xã hội học,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Trần Đình Hượu (1992), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
34. Nguyễn Khánh, Trương Mỹ Hoa (1995), Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm, các
nguồn lực trong sự đổi mới của đất nước, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
36. Vũ Khiêu (1991), Đại học Trung dung Nho giáo, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Vũ Khiêu, Đào Duy Anh (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
38. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nho giáo”, Tạp chí Hán Nôm, (2).
57. Nguyễn Thị Kim Quỳ (1995), Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội - Cách
nhìn Việt Nam và Hoa Kỳ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. “Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân” (2002), Tạp chí Khoa học Chính trị, (2).
59. Đoàn Kim Thắng, Dương Chí Thiện (2002), “Giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản
của trẻ vị thành niên”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (3).
60. Chương Thâu (2006), “Về việc nghiên cứu và ứng dụng Nho giáo, Đạo giáo ở Trung
Quốc hiện nay”, Tạp chí Triết học, (5).
61. Lê Thi (1990), Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt Nam, Hà Nội.
62. Lê Thi (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
63. Trần Thị Minh Thi (2002), “Nạo phá thai của nữ sinh viên qua nghiên cứu một số
trường hợp trên địa bàn Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (2).
64. Chu Thị Thoa (2002), “Bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ nông thôn”, Tạp chí
Khoa học Chính trị, (2).
65. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
66. Thẩm Thanh Tùng, Nguyễn Tài Thư dịch (2005), Sự tái sinh của truyền thống: Cách
tiếp cận mới về Nho giáo, Nxb. Phương Đông, Cà Mau.
67. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
68. Lê Ngọc Văn (1998), “Những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học về Phụ nữ, (1).
69. Lê Ngọc Văn (2001), “Mức sinh và phúc lợi gia đình”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ,
(4).
70. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về Đạo Nho, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
71. Nguyễn Khắc Viện (1996), Tâm lý gia đình, Nxb. Trẻ.
72. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. www.giadinh.net.vn (website Báo Gia đình và Xã hội)
74. www.goplp.gov.vn (website Tổng cục dân số - KHHGĐ)
75. www.gso.gov.vn (website Tổng cục thống kê)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status