các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại và phân tích rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng đông á - Pdf 10

Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
Lời mở đầu
Trong xu thế mở cửa, hội nhập kinh tế hiện nay, hoạt động của các
ngân hàng đã không ngừng đổi mới và phát triển. Các ngân hàng thương mại
hiện nay đang có xu hướng mở rộng nhiều nghiệp vụ kinh doanh hiện đại mới
trên thị trường và cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường, các
ngân hàng thương mại đang muốn nâng dần tỷ trọng lợi nhuận trong các
nghiệp vụ mới này.Cùng với hoạt động tín dụng mang tính chất truyền thống,
hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng đã là một hoạt động mang lại
lợi nhuận chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng số lợi nhuận chung của ngân
hàng.Các NHTM lớn đã đầu tư khá nhiều cho hoạt động này.Tuy nhiên, cũng
như các hoạt động kinh doanh ngân hàng khác, kinh doanh ngoại tệ cũng chứa
đựng những rủi ro tiềm tàng có khả năng gây mất mát lớn nếu các ngân hàng
không có các biện pháp phòng ngừa và quản lý hợp lý.Việc nghiên cứu quản
lý rủi ro trong hoạt động này là một vấn đề có ý nghĩa thực tế rất lớn và là vấn
đề đang được nhiều ngân hàng quan tâm.
Ngân hàng Đông Á là một trong những ngân hàng cổ phần thực hiện rất
thành công các nghiệp cụ tín dụng, thanh toán quốc tế, mua bán trao đổi ngoại
tệ…và thu được lợi nhuận rất cao từ những hoạt động này.Nhưng cũng chính
những hoạt động đó đã đặt ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro đặc biệt là rủi
ro trong kinh doanh ngoại hối.Qua quan sát thực tế, cùng với sự chỉ bảo tận
tình của TS.Trần Trọng Nguyên cùng các anh chị của ngân hàng Đông Á, đã
giúp em hiểu rõ hơn về hoạt động của ngân hàng và những rủi ro của ngân
hàng đang gặp phải, từ đó đã giúp em định hướng được đề tài trong chuyên đề
tốt nghiệp này:
“Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại và phân tích rủi ro tỷ giá
trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Đông Á”.
1
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á

Đầu tiên, những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay nhưng
điều đó không kéo dài.Từ hoạt động thực tiễn, họ nhận thấy thường xuyên có
người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền vào và có
người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc, đã
tạo ra số dư thường xuyên trong két.Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn
tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay.Hoạt
động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền- kẻ cho vay nặng
lãi-thành nhà buôn tiền-Ngân hàng.Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của
khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút
tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp
tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là
điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế.Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ
hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.Vấn đề là ở chỗ các yếu tố
trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính-bao gồm
cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ
tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch
vụ của ngân hàng.Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp
dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán-và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
3
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
2. Lịch sử phát triển.
Hình thức ngân hàng đầu tiên- ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân

các ngân hàng.Trong đó trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và
quản lý chính sách tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn lại dù có một số nghiệp
vụ khác nhau song đều chung đặc điểm đó là trung gian tài chính thực hiện
kinh doanh tiền tệ.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh.Trước hết đó là sự đa dạng các loại ngân hàng và
các hoạt động ngân hàng.Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập
trung vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần.Quá
trình gia tăng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra
các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước; các ngân hàng liên doanh, các tập
đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm cuối thế kỉ 20.Nhiều nghiệp
vụ mới đang ngày càng phát triển.Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay
ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và hạn, cho vay để đầu tư vào
bất động sản.Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng
khoán, cho thuê…Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú.Các
loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng.Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các ngân hàng đã mở
rộng các hình thức vay như vay ngân hàng trung ương, vay các ngân hàng
khác.Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản
của ngân hàng.Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy
nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán.Các loại thẻ đang thay
thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang
tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho cộng đồng.
Quá trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số
lượng các ngân hàng mà còn làm tăng qui mô của mỗi ngân hàng.Tích tụ và
5
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
tập trung vốn đã tạo ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng
chục tỷ đô la Mỹ, tổng tài sản hàng trăm tỷ đô la Mỹ đủ sức để tài trợ cho

tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch.Trung gian tài chính làm tăng thu
nhập cho người tiết kiệm, vì thế khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí
tổn tín dụng cho người đầu tư( tăng thu nhập cho nhà đầu tư ) từ đó mà
khuyến khích đầu tư.Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và
đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp.Cơ chế
hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng
các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại cảu ngân hàng
bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính chẳng hạn các
khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà
mọi người đều có thể mua.Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong
việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn( dưới dạng tiền gửi
) phục vụ cho hàng triệu người.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản
cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho
người gửi tiền.Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro.Ngân
hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lí do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng
thẩm định thông tin.Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích
thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính
hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng,
nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả
năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.
7
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
2. Tạo phương tiện thanh toán.
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán.Các
ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại.Các ngân hàng thợ vàng tạo
phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng.Giấy nhận

cho vay.Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả
thì sẽ tạo nên khoản thu ( tức tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác
tại một ngân hàng từ đó tạo ra các khoản cho vay mới.Trong khi không một
cửa hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống
ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi ( tạo phương tiện thanh toán ) gấp
bội thông qua hoạt động cho vay ( tạo tín dụng ).
3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia.Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá và dịch vụ.Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần.Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân
hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.Công nghệ thanh
toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó
càng được mở rộng.Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng
thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi.Nhiều hình thức thanh
toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ
giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn
thế giới.Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả
của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
III. CÁC LOẠI HÌNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Có thể phân chia ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu
cầu của người quản lý.
9
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
1. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu.

chính quyền Trung ương hoặc địa phương qui định.Tại các nước đi theo con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường quốc hữu hoá các ngân
hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng nên các ngân hàng.Những
ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo
lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản.Tuy nhiên trong nhiều
trường hợp, các ngân hàng này phải thực hiện các chính sách của Nhà nước
có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh.
1.4. Ngân hàng liên doanh :
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn củâhi hoặc nhiều
bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận
dụng các ưu thế của nhau.
2. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động.
2.1. Tính chất đơn năng.
Ngân hàng hoạt động theo hướng đơn năng: Loại ngân hàng này chỉ tập
trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây
dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay( hoặc bảo lãnh hoặc
cho thuê )…Tính chuyên môn hôấc cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán
bộ giàu kinh nghiệm,tinh thông nghiệp vụ.Tuy nhiên loại ngân hàng này
thường gặp rủi ro lớn khi ngành, hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục
vụ sa sút.Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động
hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những ngân hàng sở hữu của
công ty ( nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức ngân hàng để phục vụ cho các
thành viên của tập đoàn ).
2.2. Tính chất đa năng.
Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng.Đây
là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại.Ngân
11
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
hàng đa năng thường là ngân hàng lớn( hoặc sở hữu công ty ). Tính đa dạng

hưởng phí dịch vụ.
4.2. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền.Một trong những nguồn quan trọng là các
khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng.Ngân hàng mở dịch vụ
nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng
hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân
hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh.Trong lịch sử đã có những kỉ lục về lãi suất, chẳng hạn các
ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm
nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp
đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.Như vậy khi cung cấp các dịch vụ nhận tiền
gửi, ngân hàng thu phí gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng
tiền đó.
4.3. Cho vay.
4.3.1. Cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà
thực tế là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển các khoản thu
nhập cho ngân hàng để lấy tiền trước ).Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối
với các khách hàng( là người mua ), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh.
13
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
4.3.2. Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi
ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh
tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như một

nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng
điện, thẻ…
4.3.6. Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và cá nhân.Nhờ đó, các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều
khách hàng.Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong
việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân
quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh
doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để
thanh toán.
4.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là
cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với
các khoản cho vay của ngân hàng.Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép
hoạt động và kiểm soát các ngân hàng.Các ngân hàng được cấp giấy phép
thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện v ới mức độ nào đó các
chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.Các ngân hàng thường
mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được.
15
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
4.3.8. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và
do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh
ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách
hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán,

4.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế
hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên
doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con, ngân hàng
cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm
hưu trí…
4.3.13 Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng( thường là các ngân
hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối
trong đồng tài trợ…
IV. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1. Nhiệm vụ của thị trường hối đoái.
Trong giao dịch hối đoái giữa hai tác nhân kinh tế trong các nước khác
nhau bao hàm việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác là phải thực
hiện một giao dịch hối đoái.Điều đó khẳng định rằng không thể mua một đồng
tiền mà không cần bán một đồng tiền khác.”Đồng tiền đối ứng” ngầm thể hiện
rằng giao dịch đối ứng( mua ngược với bán ) được yết giá đối với đồng tiền kia.
17
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
Thị trường hối đoái cho phép đảm bảo việc đối chiếu giữa cung và cầu
về ngoại tệ, do vậy nó xác định giá của một ngoại tệ so với ngoại tệ khác và
xác định tỷ giá của một trong số ngoại tệ đó so với đồng bản tệ.
Thị trường hối đoái có ba nhiệm vụ cơ bản sau :
*) Giúp chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác.Trên thị trường
hối đoái chỉ diễn ra các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau.Nguyên nhân
tồn tại của thị trường này là do các quốc gia muốn giữ chủ quyền trong việc

“n”ngoại tệ chuyển đổi thì có “n” vị trí tài chính và đối với mỗi một loại
ngoại tệ này có n-1 thị trường để trao đổi n-1 ngoại tệ đổi lấy đồng tiền bản tệ
và ở đó sẽ có n-1 tỷ giá hối đoái. Vì vậy thị trường hối đoái bao gồm n(n-1)
bộ phận trong đó hình thành n(n-1) tỷ giá hối đoái.
3. Rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
Về bản chất, kinh doanh ngoại hối tự nó chứa đựng rủi ro rất cao.Ngoài
các rủi ro thông thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như : rủi ro
19
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động,
rủi ro pháp lý, rủi ro quốc gia…,thì kinh doanh ngoại hối còn chịu thêm một
rủi ro đặc biệt đó là rủi ro tỷ giá.Do tỷ giá biến động thường xuyên và vô lối,
nên rủi ro tỷ giá được xem như là rủi ro thường trực, gắn liền và trở thành rủi
ro đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng.
3.1. Khái niệm về rủi ro tỷ giá.
Theo quan điểm của các học giả Mỹ “ rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được “, “ rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác
suất “. Rủi ro thường được đo lường bằng độ chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế
với mức lợi nhuận dự kiến. Đối với ngân hàng, rủi ro có thể hiểu là mối đe doạ
bị tổn thất một phần vốn của mình và không đạt được thu nhập hay đòi hỏi các
khoản chi phí bổ sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất định.
Rủi ro tỷ giá phát sinh khi ngân hàng kinh doanh mua bán cho chính
mình, hay nói cách khác rủi ro tỷ giá là rủi ro xuất hiện khi có sự dịch chuyển
tỷ giá của các ngoại tệ mà NHTM giữ dưới dạng tài sản “Có”, tài sản “Nợ”
hoặc cả hai tức là tạo trạng thái ngoại hối mở ( open or unhedged position ) để
đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi.
3.2. Nguồn phát sinh rủi ro tỷ giá.
Trên thị trường ngoại hối ( mua, bán các đồng tiền khác nhau ), có 3
phương pháp cơ bản để thu lãi. Chẳng hạn trên thị trường giao ngay, đó là :

ngoại hối.
Tóm lại, nếu không duy trì trạng thái ngoại hối mở thì nhà kinh doanh
không chịu rủi ro tỷ giá, hoặc duy trì trạng thái ngoại hối mở nhưng tỷ giá
không biến động thì rủi ro tỷ giá cũng không phát sinh.Tuy nhiên, một thực tế
là, đã là nhà kinh doanh ngoại hối thì động cơ kiếm lãi chủ yếu thông qua việc
21
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
tạo trạng thái và tỷ giá biến động càng nhanh, càng mạnh, càng khó dự đoán
thì cơ hội kiếm lãi dành cho nhà kinh doanh càng nhiều.
3.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh
ngoại hối của ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối của ngân hàng.
*) Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo
lường rủi ro quá yếu kém, kỹ năng xử lý số liệu bằng điện toán chưa cao,
chưa có những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu
như các NHTM Việt Nam chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục
đích thanh toán, cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá nên trong
kinh doanh tiền tệ ngân hàng đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn
là nhà tạo lập thị trường.Cũng chính vì tư tưởng trên nên ngân hàng rất yếu về
phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật.Hầu như rất ít
ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho phân
tích cơ bản trong phân tích tỷ giá.Đó cũng là lý do vì sao mà ít ngân hàng
mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các ngân hàng chỉ kinh doanh cho
khách hàng.
*) Các quy định pháp lý về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa
hoàn thiện gây rủi ro tỷ giá.
Mặc dù Ngân hàng Nhà Nước đã thay đổi phương pháp xác định trạng

hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến lãi (lỗ) của hoạt động kinh doanh.Mối
quan hệ đó được thể hiện qua công thức tính lãi (lỗ) đối với từng loại ngoại tệ
khi tỷ giá biến động như sau :
Lãi (lỗ) đối với = Trạng thái ngoại hối ròng
×
Mức biến động của
ngoại tệ i của ngoại tệ i tỷ giá ngoại tệ
23
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TỶ GIÁ TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG ĐÔNG Á.
I. Mô hình lý thuyết
Rủi ro tỷ giá là một trong những rủi ro thị trường chính trong hoạt động
ngân hàng.Tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động và quan điểm của ban lãnh đạo
của ngân hàng, mỗi ngân hàng có mức độ rủi ro ngoại hối khác nhau và do đó
có phương pháp quản lý rủi ro ngoại hối khác nhau.
Một số ngân hàng thực hiện kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng yêu cầu
của khách hàng.Điều này có nghĩa là khi khách hàng có nhu cầu mua, bán
ngoại tệ, ngân hàng mới thực hiện giao dịch đối ứng để đáp ứng nhu cầu về
ngoại tệ của khách hàng.Trong trường hợp này, rủi ro ngoại hối của ngân
hàng là ít. Ngược lại, những ngân hàng lớn hoạt động đa dạng, năng động trên
thị trường quốc tế không chỉ kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng mà còn tự kinh doanh cho bản thân ngân hàng để thu lợi nhuận
( được gọi là hoạt động tự doanh hay còn gọi là “đầu cơ”).Trong những
trường hợp này, rủi ro tỷ giá của ngân hàng là lớn.Ngân hàng Đông á cũng
không nằm ngoài mục đích nói trên, vì thế đòi hỏi Đông á phải có một cơ chế
quản lý rủi ro rõ ràng đầy đủ và phù hợp với mức độ rủi ro của ngân hàng.
Mặc dù, phần lớn hoạt động kinh doanh ngoại tệ là để đáp ứng nhu cầu
khách hàng, ngân hàng Đông á đã thực hiện giao dịch tự doanh, chủ yếu tập

X
F(t)
= ln









s
s
tF
tF
)1(
)(
2. Mô hình đưa ra phân tích.
2.1. Mô hình ARCH.
*) Mô hình chung:
∑∑
=

=

++=
+=
q
j


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status