khảo sát thực trạng dạy và học tiếng anh tại đại học ngân hàng thành phố hồ chí minh để tìm ra giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường - Pdf 10


Khảo sát thực trạng dạy và học tiếng
Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố
Hồ Chí Minh để tìm ra giải pháp quản
lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo của trường
Hà Thành Hưng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân dân Việt Nam cũng như các dân tộc khác trên toàn thế giới đang sống trong những
năm đầu của thiên niên kỷ thứ 3. Đây là thời kỳ mà theo nhiều nhà khoa học đầu ngành thuộc
mọi lónh vực nhận đònh: Ngày nay đang xuất hiện một xã hội thông tin, một nền kinh tế tri thức,
một thế giới phụ thuộc vào nhau mà phát triển (nếu không gọi là toàn cầu hóa) trong khi mỗi
nước vẫn giữ vững nền độc lập, tự chủ và bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước mình.
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới,
trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010, Đảng và Nhà nước ta đã xác đònh:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, xây dựng nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.” [ 29 ; 222]
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam, hoạt động ngân hàng có một

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp quản lý việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân
hàng Thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ giảng viên dạy môn tiếng Anh tại trường và sinh viên của
trường.
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu được tác động tích cực bởi các biện pháp quản lý hữu hiệu thì chất lượng dạy và học môn
tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Tìm hiểu thực trạng dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành
phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
6. Giới hạn đề tài
6.1.Phạm vi nghiên cứu :
Nghiên cứu thực trạng dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh để tìm ra giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
6.2. Đòa bàn nghiên cứu :
Hoạt động dạy và học tiếng Anh của sinh viên và giảng viên tiếng Anh, Bộ môn Ngoại
ngữ Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây đã được thực hiện trong quá trình chúng tôi
làm nhiệm vụ nghiên cứu:
7.1. Nghiên cứu tài liệu nhằm thu thập tư liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò dành cho sinh viên và giảng viên
Quá trình tiến hành:
7.2.1. Giai đoạn 1: Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến
Phiếu trưng cầu ý kiến được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận, mục đích và nhiệm vụ của
đề tài nghiên cứu, đồng thời dựa trên sự tham khảo những đề tài có liên quan đã được nghiên
cứu .
Phiếu trưng cầu ý kiến có hai loại:

SPSS for Win 9.1.
Dùng phương pháp toán thống kê để phân tích và xử lý các số liệu thu thập được để đònh
lượng các kết quả nghiên cứu.
Thống kê kết quả của các phiếu trưng cầu ý kiến và xử lý thô .
Thống kê tần số.
Tính tỷ lệ phần trăm.
8. Tiến trình nghiên cứu

8.1. Hoàn chỉnh tóm tắt đề cương tháng 8/2003
8.2. Thăm dò ý kiến giảng viên, và sinh viên Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh:
tháng 9 và 10 năm 2003.
8.3. Tìm hiểu nội dung chương trình và kế hoạch dạy-học của một số trường đại học thuộc khối
các ngành kinh tế: tháng 9, 10/2003
8.4. Xử lý số liệu: tháng 04/2004
8.5. Viết báo cáo kết quả và hoàn thành luận văn: tháng 10 /2004.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lòch sử vấn đề nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc
đại học, trong đó có việc quản lý dạy – học ngoại ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành,
nhiều nhà khoa học, cán bộ giảng dạy đã quan tâm, nghiên cứu đề tài đổi mới công tác quản lý
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học như:
- Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục của Nguyễn Đức Quyết “Thực trạng và một
số giải pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng ngoại ngữ của cán bộ giảng dạy
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2002. [ 12 ]
Tác giả đã khảo sát để đánh giá đúng trình độ ngoại ngữ, thực tế và hiệu quả sử dụng ngoại
ngữ trong công tác chuyên môn-nghiệp vụ và nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ giảng

giáo dục ngoại ngữ. Bài : " Giáo dục ngoại ngữ trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập" của
Bùi Hiền đăng tải trên tạp chí giáo dục số 44/2002; bài " Hệ đào tạo ngoại ngữ chuyên ngành II
một loại hình đào tạo mới" của TS. Nguyễn Ngọc Ly Liên; bài "Về việc dạy tiếng Anh hệ tại
chức của Th.S. Phạm Khải Hoàn đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Giáo Dục số 10/92 .
Ngay tại Hội nghò Giáo dục Đại học được tổ chức vào tháng 3 năm 2004 tại Hà Nội, trong
bài phát biểu "Những kiến nghò về giải pháp cấp bách để đổi mới giáo dục Việt Nam và Hội
nhập quốc tế." GS.TS. Mai Quốc Liên cũng thấy rằng: "Cần cấp bách có một chiến lược ngoại
ngữ để phủ khắp tiếng Anh trong các trường học toàn quốc." [ 9 ; 6]
Các đề tài và nghiên cứu được nêu ở trên đã đề cập đến nhiều vấn đề của việc quản lý
việc dạy và học ngoại ngữ trong đó có dạy – học tiếng Anh. Tuy nhiên, chưa thấy tác giả nào
nghiên cứu sâu vấn đề một cách có hệ thống về quản lý dạy và học tiếng Anh trong một trường
đại học cụ thể thuộc khối các ngành kinh tế.
Vì thế, tôi hy vọng rằng nghiên cứu đề tài này sẽ trực tiếp góp phần vào việc cải tiến, đổi
mới phương pháp quản lý việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường.

1.2. Những khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Quản lý Giáo dục
Có thể hiểu quản lý giáo dục vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Quản lý giáo dục một
cách khoa học đòi hỏi người quản lý phải có những hiểu biết về đối tượng quản lý (giảng viên,
cán bộ công nhân viên, sinh viên, các lực lượng xã hội tham gia vào giáo dục…) và phải biết
cách vận dụng linh hoạt các qui luật, các phương pháp thích hợp trong từng trường hợp cụ thể.
Đối tượng trong quản lý giáo dục là những con người cụ thể và các mối quan hệ được hình thành
một cách tự nhiên giữa các con người cụ thể, giữa các nhóm người, tạo nên một mạng lưới phức
tạp và đa dạng mà chủ thể quản lý phải xử lý khi thực hiện các chức năng của mình. Nhiệm vụ
của quản lý là biết biến các mối quan hệ nói trên thành những yếu tố tích cực, hạn chế xung đột
và tạo nên môi trường thuận lợi để thực hiện mục tiêu. Ở khía cạnh này, quản lý là một nghệ
thuật. Đó là bí quyết làm việc với con người, bí quyết sắp xếp các nguồn lực của tổ chức, là sự
sáng tạo khi đối phó với những tình huống khác nhau trong hoạt động của tổ chức. Quản lý giáo
dục có các chức năng chính như: lập kế hoạch, tổ chức, quản lý nhân sự, lãnh đạo, kiểm tra và

phẩm chất, năng lực hành nghề, giá trò nhân cách của người tốt nghiệp một chương trình đào tạo
theo các ngành nghề cụ thể. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của thò trường lao động, quan niệm
về chất lượng đào tạo đại học không chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường
với những điều kiện đảm bảo nhất đònh như cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên … mà còn phải
tính đến mức độ phù hợp và sự thích ứng của người đã được đào tạo với thò trường lao động.
Điều này được phản ánh ở tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại
các cơ sở, doanh nghiệp, cơ quan hay các tổ chức sản xuất, dòch vụ cùng với khả năng phát triển
nghề nghiệp của họ tại các cơ sở này.
Từ quan niệm trên về chất lượng đào tạo, hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo
đại học đối với từng ngành đào tạo bao gồm các tiêu chí sau:
- Các phẩm chất về xã hội, nghề nghiệp (đạo đức, ý thức, trách nhiệm, uy tín …).
- Các chỉ số về sức khỏe, tâm lý
- Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn
- Năng lực hành nghề
- Khả năng thích ứng với thò trường lao động
- Năng lực nghiên cứu và tiềm năng phát triển nghề nghiệp
1 .3.2. Yêu cầu đổi mới về chất lượng đào tạo đại học
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Đảng xác đònh: “Đổi mới phương
pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực
hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay. Đổi mới
và tổ chức thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của các trường đại học.” [
31 ; 203 –204 ]
Thực hiện nghò quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xác đònh
kế hoạch triển khai công tác đổi mới chất lượng giáo dục trong đó khẳng đònh: "Các trường đại
học, cao đẳng đẩy nhanh quá trình đổi mới và hiện đại hóa nội dung chương trình và phương
pháp đào tạo; tăng cường dạy ngoại ngữ và công nghệ thông tin; liên kết với các trường đại học,
cao dẳng có uy tín trong khu vực và trên thế giới để nâng cao chất lượng đào tạo, hội nhập với
nền giáo dục các nước … Các trường phải đảm bảo đủ giáo trình và tài liệu học tập cho sinh
viên, chú ý sử dụng thông tin, tư liệu khoa học qua Internet[ 5 ].
Trước những yêu cầu đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong điều kiện toàn

một nền kinh tế thònh vượng, với một chất lượng văn minh cao.
1.4.2. Vai trò của ngoại ngữ trong thời kỳ đổi mới đất nước
Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thò số 422/TTg ngày 15/08/1994 để chỉ thò cho
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) cho đội ngũ cán bộ
quản lý và công chức thuộc phạm vi quản lý của mình, phấn đấu đến hết năm 1997 có thể sử
dụng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) và cán bộ quản lý, công chức Nhà nước được sử dụng
một phần thời gian hợp lý trong giờ hành chính để học ngoại ngữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo các trường đại học phải xây dựng đề án đưa
việc giảng dạy ngoại ngữ vào chương trình bắt buộc. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ tài
chính chòu trách nhiệm cân đối và cấp phát kinh phí cho sự nghiệp này. Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ chòu trách nhiệm theo dõi việc triển khai thực hiện kế hoạch, phân bố chỉ tiêu, chiêu
sinh đối tượng là cán bộ trung, cao cấp đi học ngoại ngữ. Chỉ thò đã nêu rõ cán bộ từ cấp thứ
trưởng trở xuống, dưới 45 tuổi phải sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ thông dụng là yêu cầu
bắt buộc. Điều này được coi là một tiêu chuẩn và điều kiện để xem xét đề bạt, nâng ngạch, cử
đi công tác nước ngoài.
Liên quan đến công tác đào tạo ngoại ngữ, ngày 20/11/1996, Thủ tướng Chính phủ ra tiếp
quyết đònh số 874/TTg, Điều 2 của văn bản này ghi rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán
bộ, công chức Nhà nước để tăng cường khả năng giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài trong
lónh vực chuyên môn.”
Để phối hợp trách nhiệm giữa các ngành, ngày 19/09/1997 liên tòch Ban Tổ chức Cán bộ
Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Giáo dục đã ra thông tư liên tòch số 79/TTLT
và thông tư liên tòch số 171/TTLB ngày 04/11/1994 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và Bộ
Giáo dục và Đào tạo để hướng dẫn thực hiện chỉ thò nói trên.
Chưa bao giờ việc học ngoại ngữ lại có nhiều văn bản pháp lệnh như thế. Điều đó chứng
tỏ ngoại ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực và là thực tế
khách quan cần thiết. Ngoài khoa học chuyên ngành, ngoại ngữ và tin học là một nội dung đào
tạo bắt buộc. Đó là phương tiện không thể thiếu được đối với cán bộ quản lý và công chức, đặc
biệt trong bối cảnh khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ như vũ bão hiện nay. Ngoại ngữ
không những giúp chúng ta tiếp cận những thành tựu khoa học, những thông tin mới nhất, mà

 Khả năng nghe:
Nghe hiểu các cuộc hội thoại trực tiếp bằng tiếng Anh ở mức độ đơn giản, phổ thông có
liên quan đến các chủ đề, ngôn ngữ đã được học trong chương trình. Đồng thời, nghe hiểu các ý
chính trên phương tiện thông tin đại chúng những thông tin liên quan đến chủ đề và nội dung
ngôn ngữ đã học.
 Khả năng nói :
- Trao đổi trực tiếp bằng ngôn ngữ nói ở mức độ đơn giản các tình huống giao tiếp hàng ngày
thông qua việc vận dụng các kiến thức ngôn ngữ cơ bản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
- Diễn đạt được ý mình trong những tình huống giao tiếp thông thường có liên quan đến những
chủ đề quen thuộc thông qua việc vận dụng các chức năng ngôn ngữ đã học.
 Khả năng đọc :
- Có kỹ năng đọc hiểu cơ bản các đoạn văn trong phạm vi 3.000 từ liên quan đến các chủ điểm
và nội dung ngôn ngữ được qui đònh trong chương trình.
- Đọc hiểu nội dung chính các văn bản xác thực có nội dung phù hợp với sở thích cá nhân, với
những vấn đề văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật phổ thông trên cơ sở ngữ liệu và chủ đề đã
học có kết hợp với suy đoán và tra cứu.
 Khả năng viết :
- Viết để phục vụ các nhu cầu giao tiếp cá nhân và xã giao như viết thư cho bạn bè, viết các
thiệp mừng, thiệp mời sinh nhật… mô tả hoặc tường thuật các hoạt động của cá nhân, của lớp
học hoặc điền vào các phiếu, mẫu đơn các bảng điều tra…
- Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 100 đến 150 từ) có liên quan đến các chủ đề đã học trong
phạm vi nội dung ngôn ngữ được qui đònh trong chương trình. [ 8]
1.5.3. Quản lý nội dung chương trình môn ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng
1.5.3.1. Quản lý nội dung chương trình môn ngoại ngữ
Xuất phát từ mục đích , yêu cầu và dựa trên cơ sở lý luận dạy – học, môn ngoại ngữ
trong chương trình giáo dục nói chung quy đònh những nội dung thiết yếu nhất trên các mặt :
giáo dục tư tưởng đạo đức, bồi dưỡng trí thức văn hoá và rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng
ngoại ngữ. Các mặt nội dung này liên quan chặt chẽ với nhau, hợp thành một thể thống nhất với
hạt nhân trung tâm là kỹ năng giao tiếp để thông qua hoạt động dạy –học tạo nên khả năng giao
tiếp bằng ngoại ngữ cho người học . Mối tương quan các mặt nội dung như vậy chính là đặc

của con người .
1.5.3.2. Quản lý nội dung chương trình môn học tiếng Anh tại Trường Đại học Ngân hàng
Thành phố Hồ Chí Minh
Xác đònh nội dung chương trình của môn học tiếng Anh nhằm đạt được mục tiêu đào tạo
tại các trường đại học là vô cùng quan trọng. Dựa vào kiến thức tiếng Anh tổng quát mà sinh
viên đã có ở chương trình của trường phổ thông trung học, chương trình tiếng Anh ở Trường Đại
học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh phải tiếp tục nâng cao kiến thức tiếng Anh tổng quát
cho sinh viên, đồng thời cung cấp cho họ những kiến thức tiếng Anh chuyên ngành từ cơ bản
đến nâng cao ở các mặt của cả 3 nội dung – Giáo dục tư tưởng đạo đức, bồi dưỡng tri thức văn
hoá, chuyên môn và rèn luyện kỹ năng giao tiếp ( nghe, nói, đọc, viết) bằng tiếng Anh.
1.5.4. Quản lý cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật dạy học
Để tạo điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bò đảm bảo chất lượng cho hoạt động
dạy và học, các cơ sở trường học cần thực hiện tốt các việc sau:
 Phải có đủ giáo trình và tài liệu phong phú phục vụ cho việc dạy và học.
 Sắp xếp số sinh viên đối với một lớp học ngoại ngữ không quá 30 người.
 Trong điều kiện chưa có thể trang bò các phòng học chuyên ngành đặc biệt với các phương
tiện dạy học cho bộ môn ngoại ngữ thì phòng học cho một sinh viên không được ít hơn 4m
3
/
1sinh viên, đồng thời phải đảm bảo được ánh sáng và độ thông thoáng cho phòng học.
 Phải có các trang thiết bò phục vụ cho việc dạy học ngoại ngữ (âmli, cassette, máy đèn chiếu,
băng hình, các giáo cụ trực quan…). Đối với những giờ dạy luyện nghe, sinh viên phải được bố
trí học tại phòng nghe nhìn.
 Bàn ghế, bảng và các thiết bò dạy học phải được bố trí thật khoa học.
 Phải có khu dành riêng cho việc dạy học ngoại ngữ (do đặc thù của bộ môn ngoại ngữ) để
khỏi ảnh hướng tới việc dạy các bộ môn khác.
1.5.5. Quản lý việc tổ chức dạy – học tiếng Anh
Tổ chức công tác dạy-học là một khâu rất quan trọng trong chu trình quản lý việc dạy-học ở
nhà trường, đây là một chuỗi các hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu đào tạo đề ra. Đó là:
việc lập chương trình, kế hoạch dạy-học thật khoa học, bố trí, sắp xếp, sử dụng một cách tối ưu

Có nhiều phương pháp dạy-học ngoại ngữ khác nhau, sau đây là những phươg pháp hiện
đang phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam
 Phương pháp ngữ pháp – phiên dòch
Đây là một trong những phương pháp dạy – học ngoại ngữ ra đời sớm nhất thế giới nhằm
đáp ứng nhu cầu bành trướng về chính trò, lãnh thổ, tôn giáo của các nhà nước Hi Lạp, La Mã,
đạo Cơ đốc, thời cổ đại ở châu Âu.
Mục đích cơ bản của việc dạy-học ngoại ngữ cũng như tiếng Anh theo đònh hướng phương
pháp ngữ pháp-phiên dòch là giúp người học nhanh chóng và có hiệu quả tiếp xúc với các văn
bản được đặt lên hàng đầu và là tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc dạy-
học. Các kó năng nghe, nói bằng ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày là yêu cầu thứ yếu và là hệ quả
tự nhiên của quá trình đọc-dòch hiểu văn bản. Nội dung chủ yếu của quá trình dạy-học theo
phương pháp này là giới thiệu một cách có hệ thống toàn bộ ngữ pháp của tiếng nước ngoài gắn
liền với việc đưa vào những thí dụ minh họa cho các hiện tượng ngữ pháp mới, giới thiệu theo
từng giờ học và thường kết thúc bằng những bài tập đọc phục vụ cho yêu cầu rèn luyện nhằm
nắm vững các kiến thức ngôn ngữ cần thiết. Sau khi đi qua hết một vòng ngữ pháp cơ bản,
phương pháp dạy –học sẽ tập trung phân tích từ pháp, cú pháp, từ vựng của những bài học trích
dẫn được lược giản hoặc được giữ nguyên bản để đạt được yêu cầu dòch đúng, hiểu đúng nội
dung của bài khóa. Hệ thống bài tập thực hành tập trung phục vụ cho việc rèn luyện, nắm vững
những qui tắc ngữ pháp, tiến tới vận dụng thành thạo chúng để giải quyết các nhiệm vụ đọc
dòch đúng văn bản ngoại ngữ và diễn đạt được nội dung, cần thiết sang tiếng nước ngoài, chủ
yếu dưới dạng viết dòch.
Phương pháp ngữ pháp-phiên dòch hiện nay tuy đã không còn thònh hành nữa, nhưng nó
vẫn có sức sống và tỏ ra khá có hiệu quả đối với những người lớn tuổi học ngoại ngữ cốt đạt
được mục đích đọc hiểu nắm bắt thông tin qua sách báo nước ngoài.
 Phương pháp tự nhiên (hay trực tiếp)
Mục đích của phương pháp này đối lập lại các phương pháp truyền thống, lấy tiếng nói
sinh động trong đời sống sinh hoạt hàng ngày làm đối tượng chiếm lónh chủ yếu (nên người ta
thường gọi là học sinh ngữ) chứ không phải các văn bản viết như trước nữa. Để đảm bảo thực
hiện triệt để mục đích, yêu cầu nêu trên, người ta đề ra một số luận điểm có tính nguyên tắc
như :

đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra, con người luôn luôn có ý thức tìm đủ mọi cách, mọi phương
tiện thực hiện, lần này khác với lần trước, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn. Hành vi máy móc, thụ
động không phải là đặc trưng hoạt động của con người, cho nên dừng lại ở những bài tập tự
động hóa ở mức kó xảo ngôn ngữ sẽ không đem đến cho người học được kó năng giao tiếp thực
sự, vì tình huống giao tiếp sinh động, luôn luôn thiên biến vạn hóa đòi hỏi người nghe, người nói
phải tích cực, chủ động, sáng tạo mới đạt được mục đích, yêu cầu trong hoạt động giao tiếp
ngôn ngữ.
 Phương pháp nghe – nhìn
Phương pháp này mang lại hiệu quả rất nhanh và thiết thực, đáp ứng được các yêu cầu
giao lưu kinh tế, văn hoá hết sức cấp bách. Người học có thể nắm được một số vốn ngoại ngữ tối
thiểu để tham gia ngay vào các hoạt động thực tiển của đời sống trong một thời gian rất ngắn .
Tuy nhiên, khi thực hiện phương pháp này, chúng ta phải đầu tư nhiều vào cơ sở vật chất, trang
thiết bò dạy –học và vốn từ, ngữ pháp của người học bò hạn chế .
Trường phái giáo học pháp nghe – nhìn có những nguyên tắc sau đây:
- Đảm bảo tính giao tiếp là chủ đạo
- Đảm bảo khẩu ngữ đi trước một bước
- Đảm bảo tính bao quát cấu trúc
- Đảm bảo đúng chức năng hoạt động lời nói
- Đảm bảo tính tình huống
- Đảm bảo kết hợp nghe-nhìn
- Loại trừ tiếng mẹ đẻ
- Tăng cường nhòp độ học tập.
Trong việc giảng dạy tiếng Anh, nếu giảng viên sử dụng hài hoà các phương pháp dạy
học trên thì sẽ nâng cao được hiệu quả việc dạy-học. Điều này đòi hỏi nhiều ở trình độ, kiến
thức của người thầy và sự nhuần nhuyễn, thành thục trong việc sử dụng các phương pháp dạy
học.
Phương pháp giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành rất đa dạng và về cơ bản cũng giống
như phương pháp giảng dạy tiếng Anh tổng quát. Cái gốc của việc dạy tiếng Anh chuyên ngành
vẫn là năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh trong lónh vực chuyên môn.
1.5.7. Quản lý trình độ của giảng viên

theo các quy tắc nhất đònh.
Cuối những năm 70, nhờ trang thiết bò và điều kiện dạy – học tốt hơn, phương pháp trực
tiếp và phương pháp nghe nhìn được đưa vào giảng dạy trong một số trường đại học ở Việt
Nam. Song trọng tâm của việc học và dạy vẫn hướng tới khả năng nắm bắt các quy luật ngữ
pháp, từ vựng của ngôn ngữ đích. Giảng viên thường dùng hầu hết thời gian để trên lớp giảng
giải kiến thức ngôn ngữ và như vậy học sinh chỉ ngồi nghe giảng, ghi chép một cách hoàn toàn
thụ động. Kết quả của cách dạy - học này là khi hoàn thành khoá học, sinh viên có thể nắm
được kiến thức về ngôn ngữ khá tốt nhưng khả năng giao tiếp thì yếu.
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ quản lý hành chính bao cấp sang nền kinh tế thò
trường, nhu cầu giao lưu trong và ngoài nước ngày càng tăng, với xu thế hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới, vai trò của ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng ngày càng trở
nên quan trọng. Thời kỳ đổi mới đòi hỏi một cách nhìn mới về việc đánh giá năng lực ngoại
ngữ, đó là năng lực giao tiếp hay năng lực thực hành ngoại ngữ.
Nói đến đánh giá năng lực thực hành ngôn ngữ là nhấn mạnh khía cạnh đánh giá năng
lực giao tiếp của người học. Tuy nhiên không thể nói đến năng lực giao tiếp nếu không có kiến
thức ngôn ngữ. Nói một cách khác, kiến thức ngôn ngữ giúp người học thực hiện các nhiệm vụ
giao tiếp đặt ra trong một bối cảnh cụ thể. Vì vậy, nội dung yêu cầu thi - kiểm tra kiến thức
ngôn ngữ được lồng vào bài thi - kiểm tra các kó năng: nghe, nói, đọc, viết qua các loại bài tập
"giao tiếp" như: chuyển hoá thông tin, điền thông tin, ghép hay chắp nối thông tin. Cách đánh
giá này phù hợp với nhu cầu sử dụng ngoại ngữ hiện nay trong xã hội, và đã tác động trực tiếp
tới nội dung, phương pháp dạy và học, chuyển từ đường hướng cấu trúc truyền thống sang đường
hướng giao tiếp, trong đó mục đích của việc dạy - học ngoại ngữ là làm cho người học có khả
năng giao tiếp một cách trôi chảy, phù hợp với các tình huống giao tiếp đích thực. Mọi hoạt
động dạy - học phải do người học thực hành đa chiều chứ không phải chỉ với giảng viên. Người
học trở thành trung tâm của mọi hoạt động dạy - học. Sản phẩm của quá trình dạy - học theo
đường hướng này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu giao lưu, hội nhập giữa các nền văn hoá
trên thế giới trong những năm gần đây, góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Xây dựng một hệ thống thi – kiểm tra ngoại ngữ ở Việt Nam ổn đònh trong thời kì đổi mới


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status