thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sở ii trường đại học lao động – xã hội thành phố hồ chí minh - Pdf 10

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ LỤA
THỰC TRẠNG TỰ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CỦA
GIÁO VIÊN CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC
LAO ĐỘNG – XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 60 31 80

Lao Động – Xã Hội Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Sau cùng xin gửi lời cảm ơn đến tấ
t cả bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, những
người luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình
nghiên cứu thực hiện luận văn.

TP. Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 năm 2007 Vũ Thị Lụa
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ
ĐHLĐXH TP. HCM Đại học Lao động – Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
TB Trung bình
NLGD Năng lực giảng dạy
NL1 Năng lực hiểu học sinh trong quá trình giảng dạy
NL2 Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên
NL3 Năng lực chế biến tài liệu học tập
NL4 Nắm vững kỹ thuật giảng dạy
NL5 Năng lực ngôn ngữ

vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nhiều biến đổi sâu sắc và tầm vóc to
lớn với nhịp độ phát triển ngày càng cao. Làm thế nào để có nguồn lực trí tuệ đáp ứng nhu
cầu của xã hội hiện nay? Đó là một bài toán mà ngành giáo dục cần phải giải quyết.
1.2 Thực tế giáo dục nước ta hiện nay quy mô tăng, điều kiện thiếu, dẫ
n đến chất lượng
giảm. Chính vì vậy nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ phương hướng phấn đấu của
nền giáo dục nước ta trong giai đoạn mới là : nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện , đổi
mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học thực hiện “ chuẩn hóa, hiện đại
hoá, xã hội hoá” chấn hưng nề
n giáo dục Việt Nam. Lực lượng chủ yếu thực hiện phương
hướng trên là đội ngũ giáo viên như Usinxki đã khẳng định : “Trong việc giáo dục, tất cả
phải dựa vào nhân cách người giáo dục”.[25, tr.189 ] Chỉ cần một người thầy không đủ
năng lực và phẩm chất thì sẽ ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ sau này.
1.3 Vấn đề nhân cách người giáo viên nói chung, năng lự
c giảng dạy nói riêng đáp ứng
được những yêu cầu của xã hội là vấn đề bức thiết hiện nay. Do đó, người giáo viên phải nỗ
lực phấn đấu, không ngừng học tập rèn luyện nhân cách nói chung và năng lực giảng dạy
nói riêng cho mình. Về vấn đề nhân cách người giáo viên nói chung và năng lực giảng dạy
nói riêng, từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết có giá trị. Nhưng các
tác giả mới ch
ỉ nghiên cứu nhân cách, năng lực chung của người giáo viên, chưa nghiên cứu
năng lực giảng dạy ở từng lĩnh vực cụ thể. Do đó việc làm sáng tỏ năng lực giảng dạy của
người giáo viên đối với từng lĩnh vực cụ thể từ sự tự đánh giá của họ là rất quan trọng và
cần thiết trong việc nâng cao năng lực giảng dạy l
ĩnh vực đó, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của xã hội.
1.4 Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội TP. Hồ Chí Minh ( Trường có quyết định
nâng cấp từ Trường Trung học Lao động – Xã hội vào ngày 1 tháng 1 năm 2007) trực
thuộc
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Hiện nay Trường đang đào tạo học sinh có trình độ

Cán bộ quản lý: Các Phó giám đốc, Trưởng Phó phòng ban, Trưởng Phó khoa, Ban
thanh tra giáo dục .Tất cả giáo viên (60 giáo viên) cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
- Đa số giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM tự đánh giá
ở mức khá về NLGD.
- Có sự khác biệt về sự tự đánh giá NLGD giữa các nhóm khách thể nghiên cứu theo giới
tính, trình độ đào tạo, chuyên ngành được đào tạo và thâm niên công tác.

- Có sự tương quan có ý nghĩa giữa các kết quả tự đánh giá từng mặt năng lực trong
NLGD và sự tương quan giữa từng mặt năng lực với NLGD nói chung của giáo viên cơ sở
II Trường ĐHLĐXH TPHCM.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nội dung nghiên cứu
Chỉ tập trung tìm hiểu về thực trạng tự đánh giá NLGD: Năng lực hiểu học sinh trong
quá trình giảng dạy, tri th
ức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, nắm vững
kỹ thuật giảng dạy và năng lực ngôn ngữ của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM.
Khách thể nghiên cứu
Cán bộ quản lý: Các Phó giám đốc, Trưởng Phó phòng ban, Ban thanh tra giáo dục .Tất
cả giáo viên (60 giáo viên) cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM .
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Ph
ương pháp chủ yếu để nghiên cứu lý luận là phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp này diễn ra theo giai đoạn như phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát
hóa những lý thuyết, cũng như những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước trên
cơ sở các công trình đã được đăng tải trên các sách báo, các đề cương bài giảng về các vấn
đề liên quan đến đề tài.
7.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phương pháp điều tra b

M
là mức độ dưới trung bình (ứng với 1 điểm)

Tự đánh giá cơ sở đem lại năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH
TP. HCM.
7.2.2 Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
Phỏng vấn các Phó giám đốc, Trưởng Phó phòng ban, Trưởng Phó khoa, Ban thanh tra
giáo dục để nắm bắt thêm tình hình thực tế NLGD của giáo viên, nguyên nhân dẫn đến thực
trạng đó và các biện pháp nhằm nâng cao NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH
TP. HCM.
Tham khảo ý ki
ến các chuyên gia với mục đích tìm các kết luận thoả đáng trong việc
đánh giá thực trạng tự đánh giá NLGD của giáo viên và đề xuất các biện pháp nâng cao
NLGD của giáo viên.
7.2.3 Phương pháp quan sát
Dự giờ các giáo viên, mỗi giáo viên dự 2 tiết nhằm thu thập những thông tin cần thiết
bổ sung cho việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
7.2.4 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu bài giảng, giáo án của một số giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM
để tìm hiểu năng lực giảng dạy của giáo viên.
7.2.5Phương pháp thực nghiệm
Thử nghiệm biệ
n pháp nâng cao năng lực chế biến tài liệu giảng dạy.
7.3 Phương pháp sử dụng toán thống kê
Dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu,
định lượng chính xác cho từng nội dung nâng cao tính thuyết phục của các số liệu được nêu
ra trong luận văn. Trong luận văn này các phép toán sau được sử dụng:
- Tính trung bình cộng, độ lệch tiêu chuẩn: Giá trị trung bình và độ lệch tiêu chuẩn được
sử dụng và thể hiện trong hầu hết các bảng số liệu dùng để tính toán và mô tả thực trạng tự
đánh giá NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM

trò của mình ý thức về sự giốt nát của họ, để cho chân lý có thể chói sáng trong tâm trí ho”.
[23, tr.15] Để làm được như vậy, người thầy giáo theo Socrate phải có đức hạnh cao cả, đó
là tình yêu chân lý và sự can đảm nói lên chân lý ấy.
Khổng Tử – người đại diện cho nền giáo dục phong kiến Trung Hoa, khi
đó vai trò của
nhà giáo dục được đánh giá rất cao. Những cấp bậc quan trọng trong xã hội đó là: quân, sư,
phụ (vua – thầy rồi mới đến cha). Do đó nhân cách của người thầy cũng được yêu cầu cao.
Khổng Tử đã đề cập tới nhân cách của thầy giáo bằng một chữ “đức” – thầy giáo phải luôn
trau dồi đạo đức để luôn là tấm gương sáng cho học trò noi theo . Muố
n vậy thì thầy phải
“dạy không biết mệt mỏi”để trò “học không biết chán” và tình cảm thầy trò như tình cha
con [34, 63 ].
J.A Cômenxki đã đánh giá rất cao vai trò của giáo dục và của người thầy giáo. Ông coi
nghề dạy học là nghề vinh quang nhất nhưng cũng đặt ra cho người thầy giáo những yêu cầu
rất cao về lòng nhân ái: “Không thể trở thành một người thầy nếu không là một người
cha”.[34, tr. 88 ]
Cùng với Comenxki là John Locke
– một nhà giáo dục tư sản nổi tiếng người Anh. Ông
đã nêu lên khẩu hiệu : “Giáo viên cần phải dịu dàng, ôn hoà và tin tưởng nơi học sinh” . “
Cần phải giúp chúng, giơ tay cho chúng nắm để dẫn chúng đi một cách nhẹ nhàng, trong
khi chờ đợi chúng đủ sức để đi một mình”[23, 45 ] J.J. Rousseu, nhà giáo dục người

Pháp, xuất phát điểm cho công tác giáo dục của ông là “ giáo dục tự nhiên, tự do”. Từ kinh
nghiệm bản thân, ông đã đúc kết một trong những phẩm chất quan trọng nhất giúp người
giáo viên thành công trong công tác giáo dục, đó là kiên trì và bình tĩnh .
Ở phương tây cũng đã ghi nhận một số tác phẩm của Xinét (Mi), Bukere (Anh), Tomadi
(Italia), đặc biệt là các tác phẩm của Raisơ (Mĩ) đã phản ánh một số kết quả nghiên cứu đặc
điểm nhân cách của giáo viên ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của học sinh . Bên
cạnh đó có một số tác phẩm viết dưới dạng kinh nghiệm trong giảng dạy như tác phẩm của
Ghbert Highet trong cuốn “nghệ thuật giáo dục”[17]. Trong cuốn này ông đã

ng, hoài bão, ước

mơ, sống lạc quan” [34, tr. 272 ]. Và điều quan trọng nhất là “ Lòng trung thực công bằng,
làm việc hết mình vì lợi ích chung của toàn xã hội “ [34, tr.373 ] .
Ph.N. Gônôbôlin là người có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu tâm lí người
thầy giáo. Trong tác phẩm “Những phẩm chất tâm lí của người giáo viên” ông đã đưa ra
những kết luận được đúc kết từ những công trình quan sát lâu năm về công tác sư phạm của
người giáo viên và có thể đ
em lại thành công cho công tác của giáo viên. Trong tác phẩm
này ông đòi hỏi người giáo viên phải có thế giới quan, tính tích cực xã hội , khả năng tự
giáo dục, động cơ hoạt động giáo dục, thái độ đối với trẻ, tình cảm đạo đức và thẩm mỹ.
V.A. Cruchetxki với cuốn sách “ Những cơ sở của Tâm lí học sư phạm” ông đã
khái quát được những nét nhân cách cần thiết của người giáo viên xã hội chủ
nghĩa. Về năng
lực ông cho rằng người giáo viên cần phải có: Năng lực dạy học, năng lực khoa học, năng
lực nhạn biết, năng lực ngôn ngữ, năng lực tổ chức , năng lực xây dựng uy tín, năng lực
giao tiếp , năng lực tưởng tượng sư phạm và năng lực phân phối chú ý.
A. V. Petrovski, một nhà tâm lí học sư phạm và lứa tuổ
i người Nga. Ông đề cao vai
trò của người giáo viên và ông cho rằng để thành công trong công tác dạy học và giáo dục
thì người giáo viên phải có những kỹ năng, kỹ xảo sư phạm như kỹ năng và kỹ xảo thông tin,
kỹ năng và kỹ xảo động viên, kỹ năng và kỹ xảo phát triển, kỹ năng và kỹ xảo định hướng,
bên cạnh đó cần có xu hướng sư phạm, năng lực sư
phạm (năng lực dạy học, năng lực thiết
kế, năng lực tri giác, năng lực truyền đạt, năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức), thái độ đối
xử khéo léo sư phạm, Đạo đức sư phạm …
N. Đ Lêvitôp với cuốn Tâm lí học trẻ em và Tâm lí học sư phạm tập 3 cũng đề cập
tới “nhân cách của người giáo viên Xô vi
ết và sự hình thành uy tín của người giáo viên” .
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu của các tác giả Côvaliop, Cuzơmina …

thầy giáo. Hay cuốn đề cương bài giảng Tâm lí học trẻ em và Tâm lí học sư phạm do
hội đồng bộ môn Tâm lí học Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội biên soạn. Trong đó có
chương: Một số vấn đề về năng lực của người giáo viên xã hội chủ nghĩa … Năm 1999 Phó
giáo sư
Lê Văn Hồng chủ biên cuốn Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm với sự
tham gia của Lê Ngọc Lan và Nguyễn Văn Thàng, trong đó có chương: Tâm lí học nhân
cách người thầy giáo. Bên cạnh đó còn nhiều tài liệu Tâm lí học khác ở các trường Sư phạm

Nhìn chung vấn đề về nhân cách giáo viên không phải là mới mẻ để thiếu đi những cơ sở
lý luận, nh
ưng cũng không phải là vấn đề không cần bàn đến. Những điều nêu trên đây phần
nào cho thấy tầm quan trọng của nhà giáo trong sự nghiệp giáo dục, trong sự phát triển của
xã hội. Do vậy việc nghiên cứu nhân cách người thầy giáo nhằm hoàn thiện nó là rất quan
trọng và cần thiết. Thực tiễn ngày nay các nghiên cứu về người thầy giáo đã được mở rộng
trong mối quan hệ với nhiều thành tố
, chẳng hạn như với kết quả học tập từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường sư phạm, với kết quả chuyên môn, với nhân cách của học sinh, hay giữa
các phẩm chất, năng lực với nhau … Đó là những vấn đề nghiên cứu thực sự cần thiết góp
phần phát triển sự nghiệp giáo dục, phát triển xã hội.
1.1.2 Các công trình nghiên cứu thực tiễn về năng lực ng
ười thầy giáo
Vấn đề năng lực của người giáo viên có không ít công trình nghiên cứu đề cập tới.
Một số là tự đánh giá của sinh viên Sư phạm, một số tìm hiểu đánh giá của học sinh phổ
thông về nhân cách người giáo viên của mình, cũng có đề tài tìm hiểu về những phẩm chất
và năng lực của người giáo viên phổ thông cần phải có để đáp ứng yêu cầu của công tác

giảng dạy và giáo dục. Nhưng những công trình ấy chỉ tập trung vào một số yếu tố nào đó
trong hệ thống những năng lực của người thầy giáo, chưa tìm hiểu toàn diện các năng lực
trên khách thể là giáo viên .Tuy vậy các kết quả nghiên cứu vẫn mang lại ý nghĩa thực tiễn
nhất định, góp phần mở ra hướng đi mới cho việc tìm hiểu thực trạng năng lự

thức, thái độ, hành vi đối với nghề dạy học của sinh viên s
ư phạm, mặt khác cũng đưa ra
một mẫu người giáo viên trong tương lai với những phẩm chất và năng lực. Trong đó đề cập
đến mặt năng lực như: Tri thức vừa sâu, vừa rộng, kỹ năng vận dụng phương pháp dạy học,
giáo dục thích hợp, năng lực cảm hoá học sinh, năng lực khéo léo đối xử sư phạm, năng lực
giao tiế
p sư phạm, năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, kỹ năng tự

học, tự nghiên cứu, có khả năng tổ chức quản lý, nhậy bén và linh hoạt, kỹ năng vận động
và phối hợp các lực lượng giáo dục gia đình và xã hội, kỹ năng phân tích tổng hợp và chế
biến tài liệu, có đầu óc thực tiễn, và có khả năng thiết lập các mối quan hệ tốt.
Qua đề tài nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra được mẫu người thầy giáo tươ
ng lai
với các năng lực và phẩm chất về nhiều mặt. Như vậy đề tài này đã góp phần tạo ra phương
hướng rèn luyện, phấn đấu cho các sinh viên sư phạm trong hiện tại và tương lai sau này.
Ngoài hướng tiếp cận trên sinh viên Trường Đại học cũng có luận văn tốt nghiệp tiếp cận
trên học sinh, giáo viên và phụ huynh các trường phổ thông trung học. Như đề tài: “Bước
đầu tìm hiểu về
những phẩm chất và năng lực mà người giáo viên phổ thông Trung
học cần phải có để đáp ứng những yêu cầu hiện nay của công tác giảng dạy và giáo
dục” do Nguyễn Thị Bảo Ngân sinh viên khoa Tâm lí – Giáo dục năm học 1999 – 2003
tiến hành nghiên cứu đã đưa đến những kết quả về các phẩm chất và năng lực mà người
giáo viên cần phải có để đáp ứng yêu cầu củ
a công tác giảng dạy và giáo dục.
Tóm lại: Nói chung việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về năng lực của
người giáo viên nói riêng, nhân cách người giáo viên nói chung đều đi đến nhận định về
năng lực cần thiết cho người giáo viên xã hội chủ nghĩa là:năng lực dạy học, năng lực
giáo dục, năng lực tổ chức.
1.2 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.2.1 NHÂN CÁCH, NHÂN CÁCH NGƯỜ

L.C. Vưgôtxky, A.N . Lêônchiev, B.G.Ananhiev, K.K.Platônôp, B.C. Merlin, G.P.
Predvetrnưi H.M. Reivalg … đều nghiên cứu về nhân cách và đã đưa ra những định nghĩa
và quan tâm nhiều đến cấu trúc tâm lí của nhân cách. Nhìn chung các định nghĩa đều nhấn
mạnh đến hoạt động có ý thức của nhân cách và đặt nó trong các mối quan hệ nhất định.
Đúng như I.C’Kon nhận xét rằ
ng có nhiều định nghĩa có giá trị như: “Nhân cách là sự thống
nhất các tính chất cá thể và vai trò xã hội của chủ thể trong hoạt động” hoặc “Nhân cách
như là một đặc điểm có tính chất xã hội của cá nhân, được tạo nên từ hoạt động của chủ thể
trong mối quan hệ tương hỗ với những cá nhân khác”. A.G. Côvanhiôv đưa ra một định
nghĩa rõ hơn trong đó cũng nh
ấn mạnh tới vai trò xã hội của chủ thể thông qua hoạt
động:“Nhân cách là một cá nhân hoạt động có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã
hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”
Ở nước ta, vấn đề nhân cách cũng là một trong những vấn đề được các nhà khoa học
quan tâm. Trên góc độ của khoa học Tâm lí nhiều định nghĩa đã được đưa ra, ta hãy xem xét
một số
định nghĩa sau:
Trong từ điển Tâm lí học ( do TS. Vũ Dũng chủ biên, nhà xuất bản Khoa học Xã hội
Hà Nội) nhân cách được đề cập đến như là “Toàn bộ đặc điểm, phẩm chất tâm lí của cá
nhân đã hình thành và phát triển từ trong các quan hệ xã hội . Một mặt nhân cách là sản
phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội, mặt khác nhân cách cũng là người sáng tạo ra hoàn
cảnh, điề
u kiện, của cải xã hội. Hình thành từ trong hệ thống các quan hệ khác nhau, từ
kinh tế, chính trị, từ đạo đức đến tư tưởng , nhân cách cũng lại xuất hiện và tự thể hiện
bằng các quan hệ của chính mình”.

Trong từ điển tiếng Việt, nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 1988 thì : “Nhân cách
là tư cách và phẩm chất con người, quy định giá trị xã hội và hành vi của cá nhân trong xã
hội”
PGS. TS Đặng Xuân Hoài cho rằng “Nhân cách là một cấu trúc bao gồm những

bản: Xu hướng, khí chất, tính cách và năng lực. Cấu trúc này xuất phát từ quan điểm của
A.G. Kovalev (Nga)
Xu hướng là hệ thống những động cơ bền vững, quy định sự lựa chọn của cá nhân
đối với những đối tượng nhất định và làm nẩy sinh tính tích cực hoạ
t động của cá nhân

nhằm tới đối tượng đó.Hệ thống động cơ của cá nhân là: Nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế
giới quan và niềm tin.
Khí chất là thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tốc độ, nhịp
độ của các hoạt động tâm lí, thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.
Tính cách là sự kết hợp độc đáo cá biệt những thuộc tính tâm lí đặc trư
ng của cá
nhân, thể hiện thái độ, mối quan hệ của con người đối với hiện thực và được biểu hiện trong
hành vi, cử chỉ của người đó.
Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lí độc đáo của cá nhân phù hợp với những
yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó tiến hành có hiệu
quả.
Quan điểm thứ hai: đó là cách phân chia truyền thống trong quan điểm của các nhà tư
tưởng cũng như các chuyên gia nghiên cứu ở nước ta. Điển hình là Hồ Chủ Tịch, Bác đã
từng nói:
“ Người không có đức là người vô dụng
Người không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, hơn bao giờ hết rất cần con người có
đức và tài, tức là người có ph
ẩm chất và năng lực. Đức và tài ở một mức độ nào đó thống
nhất với nhau, không thể tách rời nhau. Một người vừa phải có đức và có tài thì mới có ích
cho đất nước.
Khi nghiên cứu đề tài này người nghiên cứu đứng trên quan điểm thứ hai trong
việc tìm hiểu nhân cách giáo viên: theo hai mặt phẩm chất và năng lực, trong đó người
nghiên cứu chỉ nghiên cứu mặt năng lực ( mặt tài).

mà biểu hiện t
ập trung là thế giới quan và lý tưởng, tình cảm đạo đức và ý chí đạo đức (
biểu hiện tập trung ở tính cách)
Mặt năng lực cũng bao gồm năng lực trí tuệ (nhận thức), tình cảm trí tuệ và hành động
trí tuệ.
Cả phẩm chất và năng lực làm thành một hệ thống. Chúng quyện vào nhau, chi phối lẫn
nhau và tạo nên một cấu trúc.
Cụ thể trong nhân cách người giáo viên có thể kể đến nh
ững thành phần sau đây:
Các phẩm chất bao gồm: Thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng
yêu trẻ, lòng yêu nghề, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của người thầy
giáo.
Các năng lực sư phạm gồm:
Nhóm năng lực giảng dạy: Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo
dục, tri thức và tầm hiể
u biết của người giáo viên, năng lực chế biến tài liệu học tập, nắm
vững kỹ thuật dạy học, năng lực ngôn ngữ.
Nhóm năng lực giáo dục: Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng
lực giao tiếp Sư phạm, năng lực “cảm hoá” học sinh, năng lực khéo léo đối xử Sư phạm.
Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.
Trên cơ sở tán thành quan điểm cấu trúc nhân cách của người giáo viên của tác giả
Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng. Trong luận văn này ng
ười nghiên cứu
chỉ tập trung nghiên cứu nhóm năng lực giảng dạy trong các năng lực sư phạm của
người giáo viên.

1.2.2 NĂNG LỰC, NĂNG LỰC GIẢNG DẠY
1.2.2.1 Năng lực
Khái niệm năng lực
Hiện nay trong tâm lí học có nhiều định nghĩa về năng lực khác nhau:

- Khác biệt trong nhịp độ hoạt động và sự tiến bộ của hoạt động, sự dễ dàng trong hoạt
động đó.
- Số lượng và chất lượng của kết quả hoạt động.
- Tính chất độc lập và sáng tạo trong hoạ
t động.

Khuynh hướng là những dấu hiệu đầu tiên và sớm nhất của những năng lực đang hình
thành. Khuynh hướng biểu hiện ở nguyện vọng, ý muốn của trẻ đối với hoạt động nhất định.
Khuynh hướng thực sự thể hiện ở mặt tình cảm và ý chí đối với hoạt động. Khuynh hướng
thúc đẩy con người hoạt động bảo đảm cho năng lực nẩ
y sinh và phát triển. Người có năng
lực về một hoạt động nào đó thường khi bắt đầu thực hiện một hành động nào đó dễ dàng
hơn người không có năng lực, sự tiến bộ trong hoạt động đó rất nhanh. Nhịp độ, tốc độ,
cường độ và độ sâu của hoạt động đó cũng được tiến hành có chất lượng hơn người không
có năng l
ực. Kết quả của hoạt động đứng về số lượng và chất lượng cũng được đảm bảo
cao. Người có năng lực ở mức độ cao bao giờ cũng được thể hiện ở tính độc lập và sáng tạo
trong hoạt động. Như vậy, một hoạt động đòi hỏi nhiều phẩm chất tâm lí cá nhân phù hợp.
Những phẩm chất cá nhân này là điều ki
ện cho hoạt động có kết quả.
Từ việc phân tích các định nghĩa trên và phân tích các dấu hiệu của năng lực, trong
đề tài này người nghiên cứu nhìn nhận: Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lí độc
đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định,
đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra có kết quả.
Phân loại năng lự
c
Năng lực có thể chia làm hai loại năng lực chung và năng lực chuyên môn
Năng lực chung là hệ thống những thuộc tính trí tuệ của cá nhân, bảo đảm cho cá
nhân nắm tri thức và hoạt động một cách dễ dàng, có hiệu quả. Năng lực chung cần thiết
cho tất cả các loại hoạt động. Có thể gọi năng lực chung là năng lực trí tuệ. Năng lực này

lực trong các năng lực Sư phạm không phải xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau. Trong số
các năng lực đó có những năng lực “đặc hiệu” cho hoạt động này có n
ăng lực “đặc hiệu”
cho hoạt động khác. Chẳng hạn “năng lực cảm hoá học sinh” cần cho công tác giáo dục,
hoặc “ năng lực truyền đạt” thì lại đặc trưng cho công tác giảng dạy , nhưng có năng lực đặc
hiệu cho cả hai hoạt động giảng dạy và giáo dục đó là “năng lực hiểu học sinh”. Như vậy
cách làm này cũng không trình bày năng lực giảng dạy một cách hệ
thống.
Giáo sư A.V.Petrovski chia các năng lực Sư phạm thành: Các năng lực dạy học, các
năng lực thiết kế, các năng lực tri giác, các năng lực truyền đạt, các năng lực giao tiếp, các
năng lực tổ chức. Trong đó theo ông các năng lực dạy học tạo khả năng xây dựng có kết quả
những phương pháp truyền thụ tri thức và kỹ xảo cho học sinh trên cơ sở hi
ểu những quy
luật chung của việc dạy học. Những năng lực này giúp giáo viên lập kế hoạch và cấu tạo lại
tài liệu được tốt, làm cho nó vừa sức học sinh, tiến hành các bài dạy một cách sáng tạo, bằng
cách phát triển tư duy trẻ em, rèn luyện cho trẻ em quen làm việc một cách độc lập.[31, tr.
149]. Như vậy A.V.Petrovski cũng chưa hệ thống được các năng lực thuộc năng lực giả
ng
dạy.
Cũng có những tác giả dựa vào những năng lực đặc trưng của người giáo viên là giảng
dạy và giáo dục để xác định cấu trúc năng lực sư phạm. Để thực hiện có hiệu quả các chức
năng đó thì phải có các năng lực tương ứng. Do đó tạo thành nhóm năng lực dạy học, nhóm
năng lực giáo dục, nhóm năng lực tổ chứ
c các hoạt động sư phạm. Theo cách chia này đã hệ
thống được các năng lực giảng dạy thành một nhóm. Ở luận văn này, người nghiên cứu sử
dụng cách tiếp cận năng lực giảng dạy của người giáo viên theo tác giả Lê Văn Hồng
bao gồm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, tri thức và tầm
hiểu biết của người thầy giáo, năng lực ch
ế biến tài liệu học tập, nắm vững kỹ thuật dạy


đối với họ tài liệu nào cũng dường nh
ư đơn giản, dễ hiểu và không cần phải có một thủ
thuật trình bày đặc biệt nào. Do đó trong khi chế biến và trình bày tài liệu họ thường hướng
về mình chứ không phải là học sinh.Trái lại người giáo viên có kinh nghiệm, có năng lực
hiểu biết học sinh của mình thường biết đặt mình vào vị trí của người học, do đó họ có thể
xác định được khối lượng, mức độ khó khă
n và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất
đối với học sinh.

Do đó biểu hiện trước hết của năng lực hiểu học sinh là ở chỗ người thầy giáo xác
định được khối lượng kiến thức đã có và mức độ phạm vi lĩnh hội của các em, từ đó xác
định khối lượng kiến thức mới cần trình bày sao cho phù hợp với nhận thức của các em.
Người thầy giáo có năng lực hiểu học sinh, trong quá trình giảng dạy củ
a mình, căn
cứ vào một loạt dấu hiệu do quan sát tinh tế có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về
những lời giảng dạy của mình đã được những học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào?
Nhiều quan sát tâm lí cho thấy rằng khả năng hiểu học sinh trong quá trình dạy học của
người thầy giáo được thể hiện ở hai mức độ: ở mức độ thấp, ng
ười giáo viên có thể nhận
biết được học sinh hiểu bài mới ra sao bằng cách đề ra câu hỏi, ra bài tập học sinh làm và trả
lời, ở mức độ cao hơn , giáo viên có năng lực ngay trong quá trình dạy học, tựa hồ như đã
nắm được phần nào diễn biến của sự lĩnh hội ở chúng và hầu như “đọc ‘’được cái gì đã diễn
ra và diễn ra như thế nào trong óc họ. Quan sát những giáo viên dạ
y giỏi ta thấy, họ theo dõi
học sinh hiểu bài như thế nào không phải chỉ qua câu trả lời mà chính qua thắc mắc của học
sinh, hoặc căn cứ vào những dấu hiệu dường như không đáng kể (một sự ngập ngừng trong
câu trả lời, một từ, một câu bị dập xoá trong bài làm, một ánh mắt, một nụ cười hay một
tiếng xì xào của lớp … ) mà có thể hiểu được nh
ững biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học
sinh, dự đoán được mức độ hiểu bài và có khi còn phát hiện được cả mức độ hiểu sai lệch

- Bên cạnh nắm vững môn mình phụ trách người giáo viên còn phải nắm vững và
hiểu biết về một số ngành khoa học, môn học có liên quan đến môn mình phụ trách. Thấy
được mối quan hệ giữa các môn liên quan với môn mình phụ trách. Có thể vận dụng kiến
thức của các môn liên quan đưa vào bài giảng c
ủa mình cho phong phú.
- Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình,
- Tự nguyện làm “ một thứ bọt biển” để thấm hút vào mình mọi tinh hoa của khoa học,
của nền văn hoá nhân loại.
Năng lực chế biến tài liệu học tập
Khi truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu không phải là chuyện đơn giản, không
phải mọi cái mình hiể
u thì sẽ nói lại cho người khác hiểu đúng và đầy đủ như mình. Hơn
nữa người thầy giáo không phải dạy những con người nói chung mà dạy từng con người cụ
thể với những đặc điểm riêng về tư chất, tâm lí, trình độ nhận thức. Vì vậy muốn giúp học
sinh hiểu được tài liệu học tập và có thể vận dụng được thì người giáo viên phải biết chế
bi
ến tài liệu học tập cho phù hợp một cách tối đa đối với trình độ nhận thức của học sinh,
biết biến cái khó thành dễ, cái phức tạp thành cái đơn giản … Hay nói cách khác người giáo
viên phải có năng lực chế biến tài liệu học tập.
Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy đối với tài liệu học tập nhằm làm
cho nó phù hợp tối đ
a với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ, kinh
nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm.
Năng lực chế biến tài liệu học tập được biểu hiện ở chỗ:
Người giáo viên phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu học tập, nghĩa là người thầy giáo
phải xác định được chương trình, nội dung sách giáo khoa, nắm được m
ục đích, yêu cầu của
từng bài, từng chương của cả chương trình. Bên cạnh đó giáo viên phải nắm được trình độ
nhận thức của học sinh , vốn tri thức, vốn kinh nghiệm mà các em đang có, trình độ tư duy
của các em. Từ đó giúp giáo viên xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của

- Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và
giàu xúc cảm tích cực.
- Nhậy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy
năng lực chế biến tài liệu ở người thầy giáo.
Đối với nền giáo dục hiện đại thì người giáo viên phải biết chế biến tài liệu theo logic
nghiên cứu khoa họ
c. (điều này sẽ được làm rõ ở phần nắm vững kỹ thuật dạy học)
Nắm vững kỹ thuật dạy học
Như ta đã biết kết quả lĩnh hội tri thức của học sinh phụ thuộc vào ba yếu tố đó là:
Trình độ nhận thức của học sinh, nội dung bài giảng và cách dạy của thầy, do đó thầy phải
biết cách dạy và nâng trình
độ cách dạy lên mức độ năng lực. Sau khi chuẩn bị xong bài
giảng, giáo án, giáo viên phải truyền đạt kiến thức đến học sinh, đó là một nghệ thuật. Để
làm được điều đó đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kỹ thuật dạy học.

Nghề nào cũng có kỹ thuật hành nghề của mình, nghề dạy học cũng có kỹ thuật
riêng của nó, kỹ thuật này bị chi phối bởi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh. Trước
đây mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được coi là mối quan hệ giữa chủ thể và khách
thể. Giáo viên được coi là trung tâm của quá trình dạy học, từ đó đưa đến một kỹ thuật dạy
học “ rót tri thứ
c” (thầy giảng, trò ghi). Ngày nay việc đổi mới dạy học theo quan điểm hoạt
động, ta thấy rằng hoạt động của thầy không có mục đích riêng cho mình mà nhằm mục
đích tạo ra hoạt động tích cực ở học sinh. Quan niện này dẫn đến một kỹ thuật dạy học hoàn
toàn mới. Đặc điểm nổi bật của kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ
chức và điều khiển hoạt
động của trò nhằm lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức này dựa trên cơ sở nắm vững con đường
mà loài người đã đi trong khi phát hiện tri thức đó. Vì chỉ có cách đó, học sinh mới thực sự
nắm được lôgic nội tại của khái niệm, nắm được chân lý khoa học.
Vậy nắm vững kỹ thuật dạy học là nắ
m vững kỹ thuật tổ chức và điều khiển hoạt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status