KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CỦA NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 1 HỌC KỲ HỌC TẬP NĂM HỌC 2014 - 2015 - Pdf 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CỦA
NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 1 HỌC KỲ HỌC TẬP
NĂM HỌC 2014 - 2015”
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
VŨ QUANG VINH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CỦA
NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 1 HỌC KỲ HỌC TẬP
NĂM HỌC 2014 - 2015”

Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Người Hướng Dẫn Khoa Học: Sinh viên thực hiện:
Th.S Nguyễn Anh Thuận Vũ Quang Vinh
Chuyên ngành: GDTC
Lớp Điền kinh, Khoá: 34
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
2
Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy – Cô Trường Đại học Thể Dục Thể Thao
Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt những kiến thức chuyên

13 mm Hg : Milimét thủy ngân
14 Nxb : Nhà xuất bản.
15 RLTT : Rèn luyện thân thể.
16 T : Tốt.
17 TCTL : Tố chất thể lực.
18 SV : Sinh viên.
19 TDTT : Thể dục thể thao.
20 TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh.
21 TT : Thứ tự.
22 XL : Xếp loại.
23 XPC : Xuất phát cao.
24 VĐV : Vận động viên.
DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
TT Số NỘI DUNG Trang
1 3.1
Thực trạng thể lực của nữ sinh viên Trường ĐH SPKT
TP.HCM
31
2 3.2
So sánh thực trạng thể lực của nữ sinh viên Trường ĐH
SPKT TP.HCM theo quyết định 53/2008/QĐ-BGDĐT
của Bộ GD&ĐT ban hành (lứa tuổi 19).
33
3 3.3
Tỷ lệ phần trăm mức phân loại chỉ tiêu thực trạng thể lực
ban đầu của nữ sinh viên Trường ĐH SPKT TP.HCM
theo quyết định 53/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ GD & ĐT
ban hành.
34
4 3.4 Đánh giá sự phát triển các chỉ tiêu thể lực của nữ sinh 37

và sau 1 học kỳ học tập.
42
4 3.4
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Nằm ngửa gập bụng (lần/30 s)
ban đầu và sau 1 học kỳ học tập.
42
5 3.5
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Bật xa tại chỗ (cm) ban đầu và
sau 1 học kỳ học tập.
43
6 3.6
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Chạy 30m XPC (s) ban đầu và
sau 1 học kỳ học tập.
43
7 3.7
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Chạy con thoi 4 x 10m (s) ban
đầu và sau 1 học kỳ học tập.
44
8 3.8
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Chạy tùy sức 5 phút (m) ban
đầu và sau 1 học kỳ học tập.
44
9 3.9
So sánh tỷ lệ phần trăm mức phân loại chỉ tiêu thể lực
ban đầu và sau 1 học kỳ học tập của nữ sinh viên Trường
ĐH SPKT TP.HCM.
46
Contents
7
ĐẶT VẤN ĐỀ

những môn thể thao quần chúng và trên cơ sở này bảo đảm phát triển thể lực
toàn diện, củng cố sức khỏe cho các em.
Trong số những bài tập nhằm phát triển thể lực toàn diện, các bài tập điền
kinh đóng vai trò chủ yếu. Những hình thức tập luyện như chạy, nhảy, ném luôn
được đưa vào nội dung trong từng giờ học GDTC. Tập luyện các môn Điền kinh
thường xuyên sẽ tạo điều kiện cho sinh viên phát triển các tố chất thể lực, qua đó
giúp các em tự tin, hoạt bát, năng động hơn trong quá trình học những môn văn
hóa khác.
Học tập Điền kinh còn giúp cho sinh viên phát triển đều đặn những nhóm
cơ chủ yếu, tạo điều kiện hình thành tư thế đúng, điều chỉnh trọng lượng cơ thể,
trong quá trình học tập môn điền kinh sẽ có tác dụng tăng độ dài xương, làm
chiều cao của các em tăng lên. Ngoài ra, việc tập luyện thường xuyên các môn
điền kinh còn góp phần rèn luyện ý chí, giáo dục ý thức, khắc phục khó khăn
cho sinh viên.
Hiện nay, những bài tập điền kinh trở thành nội dung bắt buộc trong
chương trình GDTC cho sinh viên các trường đại học để phát triển các tố chất
thể lực chung (nhanh, mạnh, bền, mềm dẻo khéo léo) cho các em. Chính vì thấy
được vai trò quan trọng của các tố chất thể lực chung nên Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo ra quyết định( số 53/2008/QĐ-BGDĐT) ngày 18 tháng 9 năm 2008 để đánh
giá thể lực chung của học sinh và sinh viên. Tuy nhiên thực tế cho thấy các tố
chất thể lực chung của nữ sinh viên các trường đại học so với tiêu chuẩn của Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo còn nhiều em chưa đạt chuẩn.
9
Vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Đánh giá sự phát triển thể lực của
nữ sinh viên trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM sau 1 học kỳ học
tập năm học 2014-2015”.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Những quan điểm của Đảng và nhà nước về giáo dục thể chất trong

thể thao lành mạnh, thể dục, bõi lội, tham quan, các bài tập thể lực, những hứng thú
phong phú về tinh thần: học tập, phân tích, nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả
các hoạt động ấy với nhau” [2].
1.1.2. Giáo dục con người toàn diện theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới và được thế giới
công nhận danh hiệu Anh hùng giải phóng dân tộc. Suốt đời Bác đã hy sinh vì độc
lập dân tộc, lãnh đạo tài tình cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thành công. Bác là người trung thành với học
thuyết Mác-Lênin. Trong chỉ đạo công tác Cách mạng và lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc Bác cũng rất quan tâm đến công tác TDTT, coi đó là mục tiêu quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên.
Tháng 3 năm 1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận việt Minh,
Bác Hồ đã nêu rõ: “khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân, làm cho nòi
giống thêm khỏe mạnh”, và ngay sau khi giành chính quyền tháng 8 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe của nhân dân. Trong
lời kêu gọi toàn dân tập thể dục tháng 3 năm 1946 Người khẳng định vị trí của sức
khỏe trong chế độ mới: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới,
việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt, tức làm cho cả
nước yếu ớt, mỗi người dân khỏe mạnh tức làm cả nước mạnh khỏe”. Và vì thế
“luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước” [15].
11
Trong thư gửi Hội nghị Cán bộ thể dục thể thao toàn miền Bắc Bác đã dạy:
“muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt, thì cần có sức khỏe. Muốn có
sức khỏe thì nên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao. Vì vậy, chúng ta nên phát
triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời Bác còn căn dặn: “Cán
bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công
tác” nhằm phục vụ sức khỏe nhân dân. Về vị trí của TDTT trong xã hội, Người
khẳng định: “là một trong những công tác cách mạng khác”.
Tư tưởng bao trùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền TDTT
mới của nước ta là: Sự khẳng định có tính chất cách mạng của công tác TDTT là

gồm việc tiến hành chương trình GDTC bắt buộc và tổ chức hoạt động TDTT ngoại
khoá cho người học. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh, sinh
viên được tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuồi và điều kiện từng nơi.
GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, góp
phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa ” [16].
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Giáo dục - Đào tạo cùng với khoa
học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, chuẩn bị tốt hành trang
cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI ” Đồng thời khẳng định “ Sự cường tráng về thể
chất là nhu cầu của bản thân con người, là vốn quý để tạo ra tài sản, trí tuệ và vật
chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội
của các cấp, các ngành, các đoàn thể ” [11].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu
tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ năm 2000 đến 2010 là: “ Đưa
đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của nhân dân ”.
Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23/10/2002 của Ban bí thư Trung ương Đảng nêu rõ
“ Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, đảm bảo mỗi trường học đều có giáo
viên TDTT Tăng cường đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực TDTT” [8].
13
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp thể thao nước nhà, Thủ
tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng quy hoạch ngành
TDTT, trong đó ghi rõ: “Ngành TDTT phải xây dựng định hướng có tính chất chiến
lược, trong đó quy định các môn thể thao và các hoạt động mang tính phổ cập đối
với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của thể thao
quần chúng, khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Bộ Giáo dục và đào tào đã kịp thời có những chỉ thị, quyết định chỉ đạo thực
hiện công tác GDTC trong trường học, như việc ban hành Quy chế GDTC và Y tế
trường học trong nhà trường các cấp. Theo quyết đinh số: 14/2001 ngày 03 tháng 5
năm 2001, Bộ tiếp tục khẳng định vị trí vai trò GDTC là hoạt động giáo dục bắt

cơ sở hoạt động, nhất là trong mạng lưới rộng lớn các trường học từ mẫu giáo đến
đại học, bởi vì thể thao học đường là cái nôi đào tạo tài năng thể thao cho đất nước.
1.1.4. Thực trạng nội dung chương trình, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực của
Bộ môn GDTC trường ĐH SPKT TP.HCM.
Cơ sở vật chất
Cán bộ giảng dạy
Nội dung chương trình
Họ và tên Chức vụ
-Sân bãi:
+ Sân Bóng Đá.
+Đường chạy 100m.
+Hố cát.
+Sân bóng chuyền.
+Sân bóng rổ.
+Nhà tập võ.
+Sân cầu lông.
+Nguyễn Văn Quận Trưởng bộ môn
-Thể chất 1: 30 tiết trong
15 tuần, khối lượng học tập
mỗi tuần 2 tiết.
+Nội dung: Nhảy xa ưỡn
thân, chạy cự li trung bình
(800m nữ).
+Kiểm tra giữa kỳ vào tuần 9.
+Kiểm tra thể lực vào tuần
14 và 15
+ Nguyễn Hùng Anh Giảng viên
+Nguyễn Thanh Bình Giảng viên
+ Trần Văn Hải Giảng viên
+ Phạm Đức Hậu Giảng viên

huống đó.
Đặc điểm tâm lí quan trọng của thời kỳ chuyển tiếp ở lứa tuổi thanh niên sinh
viên là sự phát triển tự ý thức. Tự ý thức là một loại đặc biệt của ý thức trong đời
16
sống cá nhân, có chức năng điều chỉnh nhận thức và thái độ đối với bản thân. Tự ý
thức là quá trình tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá về hành động,
kết quả của hành động của chính bản thân về mặt tư tưởng, tình cảm, phong cách,
đạo đức, hứng thú Tự ý thức chính là điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân
cách, hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Tự ý thức của sinh viên được hình
thành trong quá trình xã hội hoá và liên quan chặt chẽ với tính tích cực nhận thức
của sinh viên [20].
Nhân cách đang trong giai đoạn được định hình với nội dung phong phú và
có chiều sâu: sự phát triển trong đời sống nội tâm, ý thức rõ rệt hơn về cái tôi
những suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời và định hướng nghề nghiệp, mối quan tâm
đến tình cảm giữa nam và nữ, nhu cầu xác định thần tượng định hướng cho mẫu
người mong muốn trở thành… [18].
1.2.2. Đặc điểm sinh lý
Về mặt sinh lí: Hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và sự phối
hợp các chức năng. Đầu thời kỳ này, con người đạt được 9/10 chiều cao và 2/3
trọng lượng của cơ thể trưởng thành. Riêng não bộ đã đạt trọng lượng tối đa (trung
bình là 1400 gram) và số tế bào thần kinh đã phát triển đầy đủ tới trên một trăm tỷ
nơron. Quan trọng hơn, chính ở lứa tuổi này, hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt
đến mức trưởng thành. Khoa học đã chứng minh rằng: ở nơron của lứa tuổi sinh
viên hoàn hảo hơn, cách ly tốt hơn, đốt nhánh nhiều; nhiều tế bào thần kinh não đến
tuổi sinh viên có thể nhận tin từ 1200 nơron trước và gửi đi 1200 nơron sau. Điều
này đảm bảo một sự liên lạc vô cùng rộng, chi tiết, tinh tế giữa vô số kênh vào và
vô số kênh ra, làm cho trí tuệ của sinh viên vượt xa trí tuệ của học sinh phổ thông.
Đặc điểm quan trọng của thời kỳ này là các chức năng sinh sản bắt đầu quá trình
phát triển đầy đủ. Giới tính đã phân biệt rõ rệt và phát triển đầy đủ ở mỗi giới cả về
biểu hiện bên ngoài lẫn biểu hiện nội tiết tố. Hơn nữa, ở lứa tuổi thanh niên sinh

- Phương pháp chỉ đạo trong dạy học TDTT:
+ Phương pháp dùng ngôn ngữ: Đó là phương pháp dùng các loại hình ngôn
ngữ để chỉ đạo học sinh trong quá trình dạy học TDTT nhằm đạt được các nhiệm
18
vụ, yêu cầu trong hoạt động này. Phương pháp đó giúp học sinh nhận rõ nhiệm vụ
học tập; xác định thái độ học tập đúng; khêu gợi tư duy tích cực; hiểu và nắm vững
nhanh nội dung dạy học (kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật, thể lực); bồi dưỡng năng lực
tự phân tích và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp trực quan: Đó là một phương pháp dạy học rất phổ biến và
quan trọng trong dạy học TDTT; chủ yếu là tác động vào các cơ quan cảm giác của
học sinh để tạo cho họ có tri giác tốt và hiểu, nắm được nhanh nội dung học tập.
Quá trình nhận thức sự vật của con người bao giờ cũng bắt đầu từ cảm giác. Do đó
nó rất cần thiết để giúp học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập. Trong dạy học
TDTT, các phương pháp trực quan thường là làm mẫu động tác, bài tập; giải thích
bằng giáo cụ và mô hình; kết hợp với phim ảnh, ti vi hoặc các phương tiện dẫn dắt
rất đa dạng khác [21].
- Phương pháp hoàn chỉnh và phân giải:
+ Phương pháp dạy học hoàn chỉnh: Đó là phương pháp học ngay toàn bộ
động tác từ đầu đến cuối, không phân phần, đoạn. Ưu điểm của nó là tiện cho học
sinh nắm được động tác hoàn chỉnh, không phá vỡ cấu trúc hoặc mối liên hệ nội tại
giữa các phần của động tác. Tuy vậy, không thể học nhanh những động tác khó,
phức tạp cho nên những phương pháp này chỉ dùng khi dạy học những động tác
tương đối đơn giản hoặc là tuy tương đối phức tạp nhưng nếu phân chia ra sẽ phá
vỡ cấu trúc động tác.
+ Phương pháp dạy học phân giải: Đó là phương pháp đem chia hợp lý một
động tác hoàn chỉnh thành mấy phần đoạn rồi lần lượt dạy học cho đến cuối cùng
học sinh nắm được toàn bộ động tác. Ưu điểm của phương pháp này ở chỗ đơn giản
hóa, giảm độ khó cần thiết cho quá trình dạy học, có lợi cho việc luyện tập củng cố
từng phần, giảm thời gian học tập, tăng cường tự tin cho học sinh. Nhưng nếu vận
dụng không thỏa đáng sẽ dễ phá vỡ cấu trúc của động tác, ảnh hưởng đến hình kỹ

2 loại: biến đổi liên tục và biến đổi cách quãng. Loại đầu là tập trong điều kiện biến
hóa liên tục (như chạy việt dã với tốc độ và địa hình luôn thay đổi; còn loại sau là
20
phương pháp cứ sau mỗi lần cách quãng lại có thay đổi về các chỉ số bên ngoài của
lượng vận động hoặc hình thức, tổ hợp động tác Sau mỗi lần nghỉ, có thể tăng
cường độ hoặc khối lượng vận động (chạy nhanh hơn, cử tạ nặng hơn ) hoặc có
lúc tăng, có lúc giảm. Còn thay đổi cả về các tư thế chạy, nhảy, ném, bơi, đá bóng
Trong các loại thể dục dụng cụ hoặc võ thuật biểu diễn thường có nhiều cải tiến
trong cách liên kết động tác.
+ Phương pháp luyện tập tuần hoàn (còn gọi là phương pháp luyện tập theo
vòng tròn): Trong phương pháp này, cần căn cứ vào nhiệm vụ luyện tập, mà tìm
chọn được một số phương tiện tập luyện phù hợp, tạo nên một số trạm tập luyện
tương ứng để người tập căn cứ vào trình tự, đường hướng chuyển động và yêu cầu
luyện tập cụ thể theo quy định mà tuần tự tập luyện quay vòng. Phương thức tập
luyện tuần hoàn rất đa dạng. Nhưng có 2 loại cơ bản nhất là kiểu "nước chảy” và
kiểu "bánh xe quay". Trong loại "nước chảy" lại có 2 loại nhỏ hơn (phân tổ và
không phân tổ). Trong đó, những người tập theo hàng dọc, tuần tự và tuần hoàn tập
luyện theo trình tự, đường hướng và yêu cầu xác định. Còn trong tập luyện tuần
hoàn theo kiểu "bánh xe quay" các học sinh được phân đều thành một số nhóm, tổ
ở từng trạm rồi đồng thời bắt đầu luyện tập lần lượt chuyển đổi qua hết các trạm.
Đây vừa là một phương pháp luyện tập vừa là một hình thức luyện tập. Đặc điểm
của nó là sử dụng nhiều phương tiện TDTT liên tục tuần hoàn có lượng vận động
tương đối lớn. Thiết kế trình tự và yêu cầu của phương pháp này phải căn cứ vào
nhiệm vụ luyện tập, đối tượng và điều kiện dạy học. Tác dụng chính là rèn luyện
thân thể, phát triển thể lực tương đối toàn diện; có lợi cho củng cố kỹ thuật động
tác, nâng cao năng lực vận động, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí cùng phát
huy tính tích cực học tập, luyện tập của học sinh.
+ Phương pháp tập luyện tổng hợp: Trong phương pháp này, người ta căn cứ
vào yêu cầu luyện tập, vận dụng tổng hợp một số bài tập có tính năng khác nhau.
Phương pháp này không có hình thức cố định. Đặc điểm chính là tập luyện trong

hàng đầu tới hàng cuối Luyện tập trung sức chú ý có nhiều cách. Lấy những hình
22
thức mới, hấp dẫn hoặc sử dụng các năng lực về trí tuệ, kỹ xảo trong luyện tập để thu
hút sức chú ý của học sinh, nâng cao tính hưng phấn của hệ thống thần kinh trung
ương làm cho vỏ đại não, hệ thống thần kinh và các cơ quan vận động ở vào trạng
thái phù hợp, tạo tâm thế tốt cho học và tập. Làm được như thế sẽ tập trung sức chú ý
của học sinh trong quá trình dạy học. Ngoài việc có trạng thái hưng phấn tốt còn phát
huy được tính tích cực, năng lực tưởng tượng, tư duy, trí lực, sự nhạy bén; phòng trừ
các suy nghĩ, tình cảm hỗn tạp ngay từ phần khởi động trở đi. Đặc biệt với học sinh
nhỏ, kỷ luật và tính tích cực học tập kém thì phương pháp này càng có ý nghĩa đặc
biệt.
+ Phương pháp luyện động niệm: Đó là cách luyện cho người tập tưởng
tượng, tư duy có chủ định, hệ thống quá trình thực hiện một động tác nào đó. Ví dụ
khi tưởng về quá trình hoàn thành động tác nhảy xa thì phải đủ cả quá trình đó từ tư
thế khởi đầu cho đến chạy đà, giậm nhảy, bay trên không, chạm đất và một số chi
tiết kỹ thuật khác
+ Phương pháp tập luyện thả lỏng: Trong dạy học TDTT, có loại tập thả lỏng
bằng hoạt động cơ thể và tập thả lỏng tâm lý người tập bằng ngôn ngữ. Thường làm
sau khi buổi tập luyện kết thúc. Sau một phần của buổi (giờ) tập mà thấy học sinh
khá mệt thì cũng có tập luyện thả lỏng [21].
1.3.2. Các nguyên tắc dạy học TDTT
- Nguyên tắc tự giác và tích cực:
Tính tích cực của người tập TDTT thường thể hiện qua hoạt động tự giác,
gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập - rèn luyện.Nó bắt nguồn từ
một thái độ học tập tốt, sự cố gắng nắm được những kỹ năng, kỹ xảo vận động
cùng hiểu biết có liên quan, phát triển các phẩm chất về thể lực và tinh thần nhất
định cùng khắc phục những khó khăn trên con đường đó. Tính tự lập là một trong
những hình thức cao nhất của tính tích cực, biểu hiện qua hoạt động hăng hái để tự
giải quyết những nhiệm vụ do kích thích nội tâm của từng người tạo nên. Rõ ràng,
hiệu quả của quá trình sư phạm phần lớn phụ thuộc vào bản thân người được giáo

quá trình GDTC và luân phiên hợp lý lượng vận động và nghỉ ngơi. Rõ ràng, tập
24
thường xuyên mang lại hiệu quả tất nhiên lớn hơn tập thất thường. Ngoài ra, tính liên
tục của quá trình GDTC còn có những đặc điểm cơ bản liên quan với sự luân phiên
hợp lý giữa lượng vận động và nghỉ ngơi. GDTC có thể hình dung chung như một
quá trình liên tục bao gồm tất cả các thời kỳ cơ bản trong cuộc sống.
G. Lamac đã chỉ rõ ý nghĩa chung của hoạt động như một yếu tố không thể
tách rời khỏi sự phát triển của cơ thể. Trong khi định nghĩa "định luật thứ nhất" -
"định luật tập luyện" của mình, ông viết: "Sự sử dụng thường xuyên và không giảm
nhẹ đối với một cơ quan nào đó thì ít ra cũng củng cố cơ quan đó, phát triển nó,
truyền và làm tăng sức mạnh cho nó tương ứng với chính thời gian sử dụng nó.
Trong lúc đó, một cơ quan không được sử dụng thường xuyên sẽ bị yếu đi một cách
rõ nét, dẫn đến chỗ thoái hóa và tiếp theo là thu hẹp các khả năng của mình".
Tập luyện hợp lý gây nên những biến đổi dương tính về chức năng và cấu
trúc. Chỉ cần ngừng tập luyện trong một thời gian tương đối ngắn là những mối liên
hệ phản xạ có điều kiện vừa xuất hiện đã bắt đầu mờ tắt đi; mức độ phát triển các
khả năng chức phận vừa đạt được và ngay cả một số chỉ số về thể hình cũng bắt
đầu bị giảm (tỉ trọng của tổ chức cơ tích cực bị giảm, một số yếu tố hợp thành cấu
trúc của tổ chức cơ cũng biến đổi theo hướng ngoài ý muốn ). Theo một số tài
liệu, một số biến đổi giảm sút đã có thể biểu hiện ngay vào ngày thứ 5, thứ 7 sau
khi nghỉ tập. Do đó, hoàn thiện thể chất chỉ có thể có trong quá trình GDTC liên
tục. Liên tục không có nghĩa là không nghỉ mà qua một hệ thống luân phiên giữa
lượng vận động và nghỉ ngơi [21].
- Nguyên tắc tăng dần yêu cầu
Nó thể hiện xu hướng chung về các yêu cầu đối với người tập trong quá trình
GDTC qua cách đặt vấn đề và thực hiện các nhiệm vụ mới ngày càng khó, cao hơn
từ khối lượng cường độ vận động cho đến hiểu biết, kỹ thuật có liên quan.
Cần thiết phải thường xuyên đổi mới nhiệm vụ theo xu thế chung là tăng
lượng vận động. Cũng như bất kỳ một quá trình nào khác, GDTC đều không ngừng
vận động, phát triển, đồng thời thay đổi từ buổi tập này sang buổi tập khác, từ giai


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status