TIỂU LUẬN: Hoạt động khuyến mãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam: Thực trạng và các định hướng phát triển - Pdf 11


II

TIỂU LUẬN:

Hoạt động khuyến mãi của các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông
ở Việt Nam: Thực trạng và các định
hướng phát triển

PHẦN MỞ ĐẦU

1 .Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển của đất nước, ngành viễn
thông Việt Nam là 1 trong những ngành có bước tiến vượt bậc và đang trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Để giữ chân khách hàng, các nhà cung cấp dịch vụ liên tục tung ra các chương
trình khuyến mại lớn. Số lượng thuê bao tăng lên nhiều có nghĩa khách hàng thực sự
tăng lên hay chỉ làm gia tăng thuê bao ảo? Ngành viễn thông liệu có đang phát triển
đúng hướng? Và người tiêu dùng được lợi gì?
Hàng loạt câu hỏi liên quan đến khuyễn mãi,một yếu tố quan trọng của truyền
thông marketing đặt ra và em cũng là một cá nhân tham gia thị trường này với vai trò
là người tiêu dùng, chính là lý do em muốn nghiên cứu đề tài: “Hoạt động khuyến
mãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam: Thực trạng
và các định hướng phát triển”, chủ yếu là dưới góc độ của một nhà marketing, để trả

 Phương pháp logic Phần 1.TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MÃI TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH DỊCH VỤ

1.Tổng quan về hoạt động khuyến mãi:
a.Bản chất của hoạt động khuyến mãi:
Khuyến mãi là bất kì hoạt động nào nhằm tạo ra một động cơ để mua sản phẩm
ngoài các lợi ích vốn có của nó.

b.Mục đích của hoạt động khuyến mãi:

sản phẩm của công ty.

c.Các hình thức khuyến mãi

 Dùng thử hàng mẫu miễn phí: Đưa hàng hoá mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để
khách hàng dùng thử không phải trả tiền.
 Tặng quà: Tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền.
 Giảm giá: Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung
ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký
hoặc thông báo. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý
giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
 Tặng phiếu mua hàng: Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua
hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích
nhất định.
 Phiếu dự thi: Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng
để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
 Các chương trình may rủi: Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự
các chương trình mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với
việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của
người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.  Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên: theo đó việc tặng thưởng cho
khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách
hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự
mua hàng hoá, dịch vụ hoặc các hình thức khác.
 Chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí: Tổ chức cho khách hàng tham gia
các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích
khuyến mại.


3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hình thức khuyến mãi và công cụ khuyến mãi
 Mục tiêu, chiến lược Marketing
 Mục tiêu, chiến lược xúc tiến hỗn hợp
 Ngân sách xúc tiến hỗn hợp và khuyến mãi
 Đặc tính sản phẩm, các giai đoạn chu kì sống của sản phẩm
 Hoạt động cạnh tranh
 Thực tế của ngành
 Đối tượng mục tiêu khuyến mãi

4.Đặc trưng của khuyến mãi trong kinh doanh dịch vụ
Khi mua bất kể một loại dịch vụ nào, khách hàng đều có cảm giác rằng họ có thể
sẽ gặp phải một rủi ro nào đó, đơn giản là vì dịch vụ là một thứ sản phẩm vô hình.
Khách hàng thật sự không thể biết trước mình sẽ nhận được những gì tốt đẹp cho
đến khi họ bỏ tiền ra thử nghiệm dịch vụ đó. Nói cách khác, đi bán một dịch vụ chính
là bán một lời hứa rằng doanh nghiệp sẽ đem đến cho khách hàng một điều gì đó có
lợi.
Khi phải ra quyết định có nên sử dụng một dịch vụ, khách hàng cần một điều gì
đó hữu hình để được an tâm. Điều họ thường quan tâm nhất là giá cả, bởi vì đây là
một yếu tố hữu hình, có thể giúp khách hàng so sánh dịch vụ này với dịch vụ khác.
Nhưng nếu doanh nghiệp nào cũng cạnh tranh bằng giá thì cuối cùng chẳng có ai được
lợi.
Do đó, để bán được một dịch vu, điều căn bản nhất là xây dựng lòng tin của
khách hàng vào lời hứa của doanh nghiệp. Đế làm điều này, doanh nghiệp có thể áp
dụng các kỹ thuật sau:
 “Sản phẩm hóa" dịch vụ Điều này có nghĩa là biến cái vô hình thành cái hữu hình. Đây cũng là cách dễ
thực hiện nhất. Cụ thể là doanh nghiệp sẽ soạn ra những tài liêu giới thiệu hướng dẫn

Điểm chung của tất cả các kỹ thuật nói trên là chúng sẽ tạo ra cho doanh nghiệp
một cơ hội để trình bày, thể hiện với khách hàng tất cả những giá trị mà doanh nghiệp
có thể đem đến cho họ thông qua dịch vụ của mình. Thông thường, doanh nghiệp
thường cho rằng khách hàng đã hiểu biết ít nhiều về dịch vụ mà họ giới thiệu. Nhưng
điều quan trọng nhất là làm cho khách hàng hiểu được điều gì doanh nghiệp có thể
cống hiến. Phần 2.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ VIỄN
THÔNG Ở VIỆT NAM 1.Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam
Hiện nay trên thị trường viễn thông Việt Nam đang tồn tại và phát triển 3 loại
hình dịch vụ chủ yếu: thị trường dịch vụ viễn thông cố định, thị trường dịch vụ di
động, thị trường dịch vụ internet và băng rộng .
Trong đó theo sự phát triển không ngừng, đạt trình độ cao của công nghệ thông
tin và thị hiếu của người tiêu dùng, thị trường dịch vụ di động tại Việt Nam đang được

viễn thông cố định của Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng. Để đa dạng hóa và đẩy
nhanh quá trình phổ cập dịch vụ cố định (do tốc độ tăng trưởng mạng cố định chủ yếu
xuất phát từ nhu cầu thị trường tại các vùng thành thị và bị tác động nhiều bởi sự gia
tăng mạnh mẽ các mạng di động cùng tình trạng bão hòa nhu cầu thị trường tại vùng thành thị ) Bộ truyền thông và thông tin đã cấp giấy phép thiết lập và cung cấp dịch vụ
viễn thông cố định cho các nhà khai thác mới như Viettel ,EVN Telecom và FPT
Telecom. Tuy nhiên, VNPT sẽ là nhân tố chủ lực trên thị trường cố định với 64 bưu
điện tỉnh, thành phố có nhiệm vụ chính là mở rộng và phát triển mạng điện thoại cố
định đến mọi vùng lãnh thổ.
Thị trường dịch vụ internet và dịch vụ băng rộng cũng đạt mức tăng trưởng
nhanh.Và để đáp ứng nhu cầu dịch vụ băng rộng tăng nhanh, VNPT đã tăng gấp đôi
dung lượng các tuyến truyền dẫn cáp quang liên tỉnh để hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ
trên nền mạng NGN. Tuy nhiên, hiện tại các thuê bao băng rộng chủ yếu là các khách
hàng doanh nghiệp. Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã chứng kiến việc các tập
đoàn viễn thông hùng mạnh tham gia thị trường, như Voldafone đã lập văn phòng đại
diện tại Việt Nam , Intel đã đầu tư nhà máy sản xuất thiết bị và còn nhiều công ty lớn
khác đang muốn gia nhập thị trường viễn thông Việt Nam.
Trên thị trường băng rộng, cuộc chiến giá cước vẫn là xu thế chủ đạo giữa các
công ty FPT Telecom, Viettel và Netsoft trong giành chiếm thị phần. Cuộc chiến về
giá cước dịch vụ băng rộng bắt đầu tại Việt Nam khi FPT áp dụng khuyến mại tặng
modem cho tất cả thuê bao băng rộng tốc độ cao. Tiếp đó khi viettel chào miễn cước
cho 03 tháng sử dụng dịch vụ và miễn phí thiết bị đầu cuối, miễn phí lắp đặt và gọi
nội hạt trong 12 tháng đối với tất cả thuê bao ADSL mới. FPT Telecom có các chương
trình khuyến mại ở mức khiêm tốn nhất so với các đối thủ cạnh tranh.
Thị trường viễn thông Việt nam hiện nay đang có sự cạnh tranh, nhu cầu thông
tin của các tầng lớp dân cư và toàn xã hội được đáp ứng tốt hơn với nhiều sự lựa chọn
hơn. Trong môi trường kinh doanh mới, các vấn đề tranh chấp nảy sinh là điều không
thể tránh khỏi. Áp lực của quá trình cạnh tranh đòi hỏi bản thân mỗi doanh nghiệp

khách hàng khi gọi nội mạng từ phút thứ 6 đến phút thứ 10. Tuy nhiên, điều oái ăm là
số lượng khách hàng có cuộc gọi dài quá 5 phút là cực ít. Hệ quả là số lượng khách
hàng được chăm sóc ít mà chủ yếu là… được nghe quảng cáo về việc được chăm sóc
trong tháng 9.
Ngay sau khi Viettel tung ra chương trình chăm sóc khách hàng nói trên, từ 11/9,
MobiFone cũng lập tức tung ra một chương trình chăm sóc khách hàng dành cho thuê
bao trả sau có nguyên lý tương tự. Điểm khác biệt lớn nhất là MobiFone miễn phí 3
phút gọi cho khách hàng nhưng từ phút thứ 3 trở đi (miễn phí từ phút thứ 3 đến phút thứ 5). Với ưu đãi này, nếu khách hàng trả sau gọi nội mạng 5 phút sẽ chỉ phải trả tiền
2 phút, được giảm tới 60% cước gọi.
Theo ước tính của các nhà mạng, vào năm 2010, thị trường di động Việt Nam có
thể gần đạt mức bão hòa nên đây là thời điểm để các mạng "tát vét" khách hàng. Mục
tiêu mà MobiFone đặt ra trong 6 tháng cuối năm 2009 là sẽ có thêm 5 triệu khách
hàng, đưa tổng số thuê bao trên mạng đạt 40 triệu vào cuối năm 2009. VinaPhone
cũng không giấu mục tiêu "sẽ thu hút thêm được nhiều thuê bao hòa mạng mới bên
cạnh việc đảm bảo lợi ích dài lâu cho hơn 20 triệu thuê bao thực đang hoạt động".
Để đạt được mục tiêu này không phải dễ bởi khi mà chất lượng dịch vụ giữa các
mạng đã "sêm sêm" thì giá cước vẫn là "vũ khí" lợi hại nhất để giành thị phần, bởi
trong số hàng chục triệu người đang dùng điện thoại di động hiện nay số đông là
người có thu nhập thấp.
Sau thời gian dài thỏa hiệp giảm liều lượng khuyến mãi, bỗng 3 doanh nghiệp đi
đầu làng viễn thông quay sang soi xét nhau. Viettel và MobiFone cho rằng VinaPhone
có biểu hiện phá vỡ cấu trúc thị trường khi cứ "thả giàn" khuyến mãi.
Mấy năm gần đây, thị trường viễn thông VN chứng kiến cuộc đua sát nút giữa 3
ông lớn di động Viettel, MobiFone và VinaPhone. Giá cước được coi là lợi thế cạnh
tranh và khi hôm nay Viettel giảm giá thì y như rằng ngày mai, anh em nhà VNPT
VinaPhone và MobiFone cũng ấn định mức cước tương tự. Không có một quy ước
chung nhưng cả 3 mạng di động đại gia đều "nhìn nhau" để đưa ra các gói cước và

khuyến mại cao hơn so với Viettel và MobiFone. Thêm vào đó, nếu chương trình
khuyến mại nạp thẻ của Viettel và MobiFone được tung ra thì VinaPhone được
khuyến mại nhiều hơn.
Điều này thể hiện cụ thể nhất ở trong chương trình tặng tài khoản cho các khách
hàng nạp thẻ gần đây nhất: Viettel tặng 100% thẻ nạp, MobiFone tặng 120%, còn
VinaPhone tặng 130%. Trước đó, tại TP HCM, VinaPhone còn cho các khách hàng trả
sau được gọi nội mạng "thả giàn” cả năm mà không mất một đồng nào.

b.Khuyến mãi bằng gói cước mới
Cùng với khuyến mại tặng giá trị thẻ nạp, Viettel, MobiFone và VinaPhone tiếp
tục cuộc đua khi liên tục ra mắt các gói cước mới. Cách đây 3 tháng, Viettel là mạng
đầu tiên ra mắt gói cước dành cho sinh viên. Cuối tháng 8, MobiFone công bố 2 gói
cước Q-Teen (dành cho các khách hàng từ 15 tới 18 tuổi) và Q-Student (dành cho sinh
viên) với nhiều ưu đãi như miễn phí 15.000đ cước sử dụng GPRS/tháng; tặng thêm tin nhắn MMS, tặng thêm cước phí hàng tháng thì chỉ vài ngày sau VinaPhone cũng ra
mắt hai gói cước "Talk-Student" và "Talk-Teen" dành cho hai đối tượng trên và
những khuyến mại tương tự.
Phó giám đốc Vinaphone Hồ Đức Thắng còn khẳng định, trong thời gian tới
VinaPhone sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển gói cước TalkEZ dành cho các đối tượng
khách hàng đặc biệt khác trong xã hội để "tất cả mọi người, không phân biệt thu nhập,
sẽ có điều kiện tiếp cận và sử dụng dịch vụ điện thoại di động của VinaPhone một
cách dễ dàng hơn". Điều đó cũng có nghĩa khách hàng sẽ còn tiếp tục "bội thực" vì
các chương trình khuyến mại.
doanh độc quyền, giá cả đắt đỏ, mở rộng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực viễn
thông đưa đến các cơ hội mới cho nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Đứng vững
trong hoạt động cạnh tranh cũng giúp các doanh nghiệp khẳng định được vị thế của
mình và ngày một trưởng thành hơn.
-Khuyến mãi “tiếp thị” tốt hình ảnh của doanh nghiệp với người tiêu dùng.
Thương hiệu lớn như Viettel, Mobifone, Vinaphone… đã trở nên quen thuộc hơn bao
giờ hết với người Việt Nam. Hình ảnh về doanh nghiệp được người tiêu dùng hình
dung phần lớn là tốt và đáng tin cậy.
-Doanh nghiệp có khuyến mãi tốt giúp kéo lượng khách hàng về tay doanh
nghiệp mình đông hơn.
-Doanh thu tăng trưởng cao là điều không thể phủ nhận, chỉ tính riêng năm 2009,
khách hàng viễn thông đã đóng góp vào mức doanh thu 140.000 tỷ đồng của các
doanh nghiệp viễn thông. Những con số này cho thấy viễn thông Việt Nam có sự tăng
trưởng mạnh cả về doanh thu và số lượng thuê bao.
 Đối với người tiêu dùng
Trong những “cơn mưa” khuyến mãi đi đôi với chất lượng dịch vụ của cạnh
tranh viễn thông hiện nay khách hàng là người được hưởng lợi nhiều nhất. Đối với
người tiêu dùng khi lựa chọn cho mình một nhà cũng cấp dịch vụ viễn thông thì 2
nhân tố quyết định đó là giá thành của dịch vụ và chất lượng của dịch vụ. Và trong
chiến lược cạnh tranh của mình các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cũng luôn chú trọng hàng đầu đến những vấn đề này. Với hàng loạt các phương thức cạnh tranh:
Khuyến mãi, giảm giá cước, chăm sóc khách hàng … các nhà cung ứng dịch vụ viễn
thông đã đáp ứng được các nhu cầu của mọi người tiêu dùng. Ưu điểm rõ nét nhất của
cạnh tranh viễn thông đó chính là đã mang đến cho người tiêu dùng nhiều cơ hội chọn
lựa mới hấp dẫn với những chính sách chăm sóc khách hàng khiến người tiêu dùng
vừa ý. Và đặc biệt nhờ có hoạt động cạnh tranh mà mạng viễn thông đã được phủ
sóng rộng rãi giúp những người dùng có thu nhập thấp tiếp cận được với công nghệ
số.

CDMA như EVN Telecom, S-Fone đều đã hụt hơi. Cụ thể, trong khi 3 mạng di động
GSM có tới gần 60 triệu thuê bao thì toàn mạng CDMS chưa có nổi 6 triệu thuê bao.
HT Mobile đã phải ngừng hoạt động; S-Fone thì hụt hơi trong cuộc đua khuyến mãi
và buộc phải tăng giá cước gói Forever Coupble. Hàng loạt các gói sản phẩm và công
nghệ khác đang trong tình trạng "sống dở, chết dở" như CityPhone (mạng nội thị), hay
như gói sản phẩm E-Phone của EVN Telecom
Cũng theo các chuyên gia viễn thông, có thể nói cuộc đua giữa các doanh nghiệp
viễn thông đã "hạ màn" khi VN có đủ 3 doanh nghiệp "thế chân vạc" là Viettel,
MobiFone và VinaPhone để dẫn dắt thị trường. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng
khuyến cáo, nếu việc giảm cước diễn ra quá nóng, nhiều tiểu xảo như trên thì các
doanh nghiệp nhỏ gần như không còn cơ hội cạnh tranh. Điều này thực tế là bất lợi
cho tất cả các doanh nghiệp, khi mà tiềm năng kinh doanh đã bị khai thác quá mức.
Giữa các doanh nghiệp còn thiếu sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau cùng cạnh tranh
lành mạnh nhất là giữa những doanh nghiệp lớn và những doanh nghiệp nhỏ mới
thành lập. Vì thế trong hoạt động cạnh tranh không tồn tại sự bình đẳng cho các doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường. Các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong việc
quy hoạch dung lượng mạng, chất lượng mạng chưa ổn định do băng tần không sạch
bị nhiễu nặng. Ngoài ra còn phải đối mặt với nhiều trở ngại như giá thiết bị cao, thiết
bị đầu cuối đắt. Cụ thể như EVNTelecom và S-Fone vẫn đang gặp khó khăn về thiết
bị đầu cuối Vietnammobile và Beeline thì khó khăn về vùng phủ sóng và phân khúc
khách hàng. Bên cạnh đó bản than các doanh nghiệp này chắc chắn đi sau các doanh
nghiệp lớn trong việc cung cấp dịch vụ 3G.
Việc phát sinh số lượng thuê bao ảo lớn dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng đó là
khiến chất lượng dịch vụ bị giảm sút. Số lượng thuê bao tăng nhanh hơn so với sự
phát triển của mạng, và cùng một lúc, nhiều thuê bao sử dụng sẽ làm cho tốc độ truyền tải của mạng kém đi Như thế, ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng lỗi mạng, chậm
mạng, khiến nhiều khách hàng bức xúc.
Điều này tất cả các mạng di động đều hiểu nhưng lại đang cố tình phớt lờ những

chính sách hữu hiệu nào để tạo điều kiện nâng đỡ các doanh nghiệp mới phát triển,
làm cho môi trường đầu tư và tài nguyên cho các doanh nghiệp mới khai thác trở nên
ít ỏi. EVN Telecom cho rằng đây là nguyên nhân làm cho tốc độ phát triển thuê bao
tại nhiều tỉnh thành bị chậm do quỹ tần số không đủ để cung ứng trong thời gian đầu.
Trong hoạt động cạnh tranh chất lượng dịch vụ khách hàng của các doanh nghiệp
ngày càng cần được hoàn thiện.Nhưng tốc độ xây dựng cơ bản chậm do có quá nhiều
thủ tục quy định xây dựng không thể bỏ qua
Mặc dù nhà nước đã có khuôn khổ pháp lý về quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
viễn thông và đang tiến hành xây dựng luật viễn thông nhưng để có một môi trường
cạnh tranh viễn thông thực sự lành mạnh vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ.
Nguyên nhân của những hạn chế trên
 Một trong các nguyên nhân khiến tình trạng khuyến mại vượt khỏi tầm kiểm
soát của các cơ quan chức năng là các văn bản quy định nhiều song chưa đầy đủ thống
nhất và chính xác.
 Do chế tài xử lý của pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe, các doanh
nghiệp sẵn sàng lách luật, vi phạm luật vì mục tiêu lợi nhận và với ý định chiếm lĩnh
thị trường
 Có thể nói rằng nhu cầu quảng bá thương hiệu, kích cầu tiêu dùng luôn được
các đơn vị tổ chức khuyến mại đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, số lượng các chương
trình khuyến mại theo đó cũng tăng lên từng năm. Một số doanh nghiệp khi thực hiện
chương trình khuyến mại bị phát hiện ra có dấu hiệu vi phạm, thực chất nhiều trường
hợp do những doanh nghiệp này không nắm hết các quy định về khuyến mại nên đã
vô tình vi phạm.
 Trên thực tế, việc kiểm tra kiểm soát các hoạt động khuyến mại là hầu như
không thể thực hiện được trong tình trạng số lượng doanh nghiệp tham gia quá nhiều,
phạm vi, hình thức khuyến mại đa dạng trong lúc cán bộ quản lý ít, quy định không rõ
ràng. Khi phát hiện đơn vị tổ chức vi phạm Sở Thương Mại đã có công văn nhắc nhở
đồng thời yêu cầu lực lượng quản lý thị trường kiểm tra, giám sát chặt việc sửa sai của
đơn vị tổ chức. Tuy nhiên do số lượng chương trình khuyến mại quá dày mà cán bộ có


nước thành viên đã tự mình có những thay đổi về cơ cấu tổ chức để đáp ứng các thách
thức mới như là chia sẻ khai thác kinh doanh và các quy định viễn thông. Tác động trước mắt của Internet và thương mại điện tử đã thúc đẩy hơn nữa những thay đổi cho
cơ chế đang tồn tại về chính sách, quy định và thương mại trong lĩnh vực viễn thông.
Thị trường thế giới về lĩnh vực viễn thông đang ngày càng mở rộng. Nó không
còn là vấn đề 'kéo cầu' hay 'đẩy cung', cả hai điều này đang xảy ra. Sự tác động lẫn
nhau của hai yếu tố này khiến cho viễn thông trở thành một trong những lĩnh vực có
sự tăng trưởng hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Nó cũng khiến cho viễn thông trở
thành một trong những ngành quan trọng nhất của hoạt động xã hội, văn hoá và chính
trị. Điều này đặt ra những vấn đề quan trọng có liên quan đến viễn cảnh về xã hội
thông tin toàn cầu (GIS). Viễn cảnh này đã là chủ đề tranh luận trong gai đoạn 1995-
1999, ban đầu là các nước công nghiệp tiên tiến G7, sau đó là trong cộng đồng quốc
tế. Ngày nay những ý tưởng cơ bản ẩn sau khái niệm GIS đang được chấp nhận một
cách rộng rãi. Trong viễn cảnh này, mọi hình thức hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá,
chính trị sẽ ngày càng phụ thuộc vào việc truy nhập những dịch vụ viễn thông và
thông tin của cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu (GII). Sự phát triển nhanh chóng của
thương mại điện tử trên Internet là một ví dụ làm thế nào để GIS trở thành hiện thực.
Thách thức cộng đồng quốc tế đang phải đối mặt đó là phải tìm ra được những hướng
đi đảm bảo GIS thực sự mang tính toàn cầu và rằng mọi người ở mọi nơi có thể chia
sẻ những quyền lợi của no.
Tốc độ thay đổi trong lĩnh vực viễn thông là rất lớn và các ứng dụng của nó đang
trở nên rộng rãi hơn. Công nghệ, kinh doanh thương mại, môi trường và các tổ chức
quốc tế về viễn thông đang thách thức khả năng của xã hội trong lĩnh vực quản lý. Các
giải pháp lâu dài cho vấn đề truy nhập trong các khu vực vùng sâu, vùng xa đó là các
công nghệ mới như là Cellular, vệ tinh, cáp quang và DSL và chúng đang tăng đáng
kể trong toàn bộ thị trường. Dù sao vẫn có khác biệt lớn tồn tại như độ khả dụng của
dịch vụ bên trong các nước và giữa các nước. Công nghệ mới có khả năng làm tăng
thêm hoặc làm giảm sự mất cân bằng giữa các nước.

nay còn chưa có bất cứ một nhà khai thác nào tỏ rõ ý muốn dùng thử kỹ thuật đó.
Verizon Wireless, một nhà khai thác mạng CMDA lớn, cho rằng mạng CMDA
sẽ phát triển theo hướng LTE, mà không phải là UMB, chủ yếu là do mấy vấn đề sau
đây: Một là LTE được ủng hộ rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, vả lại mức độ các nhà
sản xuất hỗ trợ LTE còn cao hơn; hai là mạng lõi mới dựa trên IP là loại mở, không có
quan hệ gì với kỹ thuật tiếp nhập, cho nên có thể lựa chọn kỹ thuật giao diện không
gian mới; ba là đang trong quá trình phát triển theo hướng 4G, mà kỹ thuật giao diện
không gian lại phát triển từ CMDA – based theo hướng OFMA – based, thì bất luận là LTE hay là UMB đều sẽ có mối quan hệ chồng lấn với EV-DO Rev.A, không tồn tại
vấn đề dung hợp với phía trước. Cho nên LTE cũng có thể là phương hướng phát triển
của EV-DO Rev.A.
Là nhà khai thác CMDA lớn, sự lựa chọn đối với con đường phát triển kỹ thuật
của Verizon có ảnh hưởng rất lớn đối với sự lựa chọn kỹ thuật của rất nhiều nhà khai
thác CMDA vừa và nhỏ khác. Verizon đã tiến hành cải tiến giản đơn hoá thích đáng
IMS của 3GPP, đưa ra hệ thống A-IMS của mình. Vì vậy, về giai đoạn tiếp theo của
mạng CMDA, Verizon đã căn cứ vào đặc điểm và hiện trạng của bản thân, lựa chọn
con đường phát triển mạng lưới không theo chế định của 3GPP2.
Trong khi đó, Sprint Nextel, nhà khai thác mạng CMDA lớn thứ hai ở Mỹ, hiện
đang thúc đẩy tích cực đối với kỹ thuật WiMAX. Mạng CMDA của Nextel khai thác
trên băng tần 1,9GHz, còn mạng CMDA của Verizon là đối thủ cạnh tranh chính của
nó, thì khai thác trên băng tần 800MHz, nên mạng CMDA của Sprint Nextel có giá
thành phủ sóng tương đối cao, hiệu quả phủ sóng kém, không có ưu thế cạnh tranh
bằng. Đồng thời, Sprint Nextel có băng tần 2,5G rộng khoảng 100MHz, còn WiMAX
thì có thể dùng cho kỹ thuật duy nhất của băng tần 2,5GHz. Vì vậy, Sprint Nextel tích
cực thử nghiệm dùng WiMAX làm một phương tiện cạnh tranh mới.
Nhưng một bộ phận các nhà khai thác cũng tỏ ra lo lắng đối với độ chín muồi
của kỹ thuật WiMAX. Có một số nhà khai thác cho rằng WiMAX và kỹ thuật 3G tăng
cường đã áp dụng kỹ thuật tương đương, như OFDM, MIMO và anten thông minh,

chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
 Bên cạnh đó, việc tuyên truyền các quy định về khuyến mại cho doanh nghiệp
cũng rất cần thiết để nâng cao ý thức của doanh nghiệp trong hoạt động. Nhiều doanh
nghiệp vi phạm nhưng là do không am hiểu kiến thức pháp luật.
 Để kịp thời chấn chỉnh hoạt động khuyến mại và ổn định thị trường, Cục xúc
tiến thương mại cần phối hợp với một số cơ quan chức năng khác như Cục quản lý
cạnh tranh, Cục quản lý thị trường để có đủ nguồn nhân lực quản lý chặt chẽ hơn hoạt
động này. Một mặt, tăng cường quản lý hoạt động cấp phép bằng cách yêu cầu doanh
nghiệp khi đăng ký tổ chức chương trình khuyến mại phải nêu rõ điều kiện đăng ký và
nội dung chương trình, mặt khác rà soát, giám sát quá trình thực hiện của doanh
nghiệp. "Với những giải thưởng không có người trúng, Cục khuyến khích doanh
nghiệp đưa vào các quỹ từ thiện Về phần người tiêu dùng, để tránh bị xâm phạm
quyền lợi, cần nâng cao nhận thức trong việc tìm hiểu và tham gia các chương trình
khuyến mại”.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status