So sánh năng suất một số giống đậu tương trong điều kiện vụ Xuân hè tại thành phố Sơn La và các vùng phụ cận - Pdf 13

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây đậu tơng [Glycine max (L)-Merill], là loại cây họ đậu (Fabaceae) có
giá trị dinh dỡng và giá trị kinh tế cao. Trong thành phần của hạt đậu tơng có
chứa một hàm lợng rất cao các chất nh protein 38 - 45%, lipit 18 - 25%,
hydratcacbon 36 - 40%, các chất khoáng (4 - 5%) và các vitamin nh vitamin B1,
B2, C, D, E, K rất cần thiết. Protein đậu tơng có giá trị cao không những về
hàm lợng lớn mà nó còn có đầy đủ và cân đối các loại axit amin cần thiết đặc
biệt là giàu lizin và triptophan đối với sự tăng trởng và sức đề kháng của cơ thể
[1]. Đậu tơng là loại hạt mà giá trị dinh dỡng của nó đợc đánh giá đồng thời
cả về chất lợng protein và lipit, với hàm lợng nh vậy hoàn toàn có thể thay thế
đạm động vật trong bữa ăn hàng ngày của con ngời. Vì lý do đó mà hiện nay từ
hạt đậu tơng ngời ta chế biến đợc trên 600 loại thực phẩm khác nhau.Từ các
loại thức ăn cổ truyền nh: đậu phụ, tơng chao, sữa đến các sản phẩm hiện
đại nh: Bánh kẹo, cafê đậu tơng, thịt nhân tạo (Trần Đình Long, 2000) [2].
Chính vì vậy mà dân ta còn gọi đậu tơng là ngời đầu bếp của thế kỷ.
Hạt đậu tơng thì ngoài làm thực phẩm cho ngời, thức ăn cho gia súc còn
đợc làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Những sản phẩm nh khô dầu
đậu tơng thì ngoài việc làm thức ăn cho gia súc, còn đợc sử dụng làm mực in,
sơn, xà phòng, chất dẻo, thuốc trừ sâu Hạt đậu tơng còn đợc sử dụng nhiều
trong y học dùng làm vị thuốc cha bệnh. Giúp tránh hiện tợng suy dinh dỡng
ở trẻ em, ngời già và có tác dụng hạn chế bệnh loãng xơng ở phụ nữ, bệnh đái
tháo đờng, thấp khớp [3].
Cây đậu tơng sinh trởng đợc trên nhiều loại đất khác nhau nh: đất sét,
đất thịt, thịt pha cát và có khả năng cải tạo đất rất tốt [5]. Nhờ sự hình thành
2
nốt sần ở bộ rễ cây đậu tơng do xâm nhập của vi khuẩn Rhizobium Japonicum
sống cộng sinh, có khả năng cố định đạm từ khí quyển nên hàng năm cây đậu
tơng trả lại cho đất từ 50-80 kg đạm/ ha/ năm (Lê Hoàng Độ và cộng sự 1997)
[4]. Ngoài việc cố định đạm, bộ rể đậu tơng còn có khả năng tiết ra các axit hữu

Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống đậu
tơng thí nghiệm.
Xác định những yếu tố hạn chế năng suất đậu tơng tại địa phơng và biện
pháp khắc phục.
3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. ý nghĩa khoa học
- Xác định cơ sở khoa học cho bộ giống đậu tơng năng suất cao phù hợp
với điều kiện sinh thái vụ Xuân hè của tỉnh.
- Làm cơ sở khoa học để hoàn thiện quy trình thâm canh các giống đậu
tơng năng suất cao trong tỉnh.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ xung thêm những tài liệu
khoa học phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất về cây
đậu tơng.
3.2. ý nghia khoa học
- Bổ sung một số giống đậu tơng năng suất cao vào cơ cấu giống của tỉnh
nhằm đẩy mạnh sản xuất cho hiệu quả kinh tế cao.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất đậu tơng của tỉnh từ đó xác định
đợc những lợi thế và nguyên nhân chủ yếu hạn chế năng suất đậu tơng.
4
Chơng 1
Tổng quan tài liệu
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu
Đậu tơng là cây thực phẩm quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp
của hầu hết các nớc trên thế giới. Trong số các loại cây lơng thực, cây thực
phẩm thì cây đậu tơng mang lại giá trị kinh tế cao đứng hàng thứ t sau lúa mỳ,
lúa nớc và ngô. Sản phẩm từ đậu tơng chủ yếu là dầu, bột và một số ít dạng hạt.
Dầu đậu tơng chiếm 20 25% sản lợng dầu, chất béo trên thế giới và trong
toàn bộ sản lợng dầu thực vật ăn đợc dầu đậu tơng chiếm 30 35% [8].
Mặt khác, trồng đậu tơng còn giúp bồi dỡng và cải tạo đất tốt nhờ xác

chuyển không thuận lợi, phơng tiện đi lại khó khăn. đối với ngời dân sản xuất
nông nghiệp thì cây đậu tơng đợc coi là cây trồng chính mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Nhng do công tác sản xuất và phát triển cây đậu tơng còn nhiều
mặt hạn chế nh: ngời dân cha thực sự chú ý áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong sản xuất, phần lớn vẫn sử dụng giống cũ, đã bị lẫn tạp, thoái hoá, biện
pháp kỹ thuật canh tác còn đơn giản theo tập quán cũ Mặt khác, diện tích đất
nông nghiệp bỏ hoá còn rất nhiều, tập trung chủ yếu ở những cánh đồng không
chủ động nớc, cha có các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất.
6
Việc đa cây trồng cạn nói chung và cây đậu tơng nói riêng vào sản xuất
trên các vùng đất đồi dốc này là rất cần thiết để tăng vụ và tận dụng diện tích đất
bỏ hoá, góp phần cải tạo đất, chống xói mòn, nâng cao thu nhập cho ngời dân.
1.2. Yêu cầu về đất đai và dinh dỡng của cây đậu tơng
Đậu tơng là loại cây trồng không kén đất, nhng thích hợp nhất cho cây
đậu tơng phát thiển là loại đất pha cát hoặc đất thịt nhẹ, tơi xốp, sâu màu,
thoáng, thoát nớc. Đất có độ pH : 6 7 thích hợp cho cây sinh trởng và hình
thành nốt sần. Đậu tơng không sống đợc trên đất quá chua hoặc quá kiềm. Đất
ít màu, chua vẫn có thể trồng đợc đậu tơng nhng cần phải thoát nớc, bón
nhiều lân và vôi.
Các nguyên tố N, P và K cần thiết cho cây trong suốt cả quá trình sinh
trởng, phát triển. Nitơ có tác dụng làm cho cây mọc nhanh, phát triển hệ rể, tạo
cơ sở cho việc hình thành nốt sần. Đồng thời phát triển lá, thân, cành; tăng tỷ lệ
đậu quả và tỷ lệ quả chắc, tăng trọng lợng hạt và hàm lợng protein trong hạt.
Photpho có tác dụng xúc tiến phát triển bộ rễ và hình thành nốt sần, giúp cây
cứng cáp Kali đóng vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp và tổng hợp
chất gluxit. Tác dụng điều hoà các quá trình đồng hoá đạm, tổng hợp protein cân
bằng nớc giúp tăng tính chống chịu sâu bệnh hại, tăng khả năng chịu rét, chịu
hạn và chống đổ cho cây.
Ngoài các nguyên tố trên còn có Ca, Mg, S và một số các nguyên tố vi
lợng khác có ảnh hởng rất lớn đến sinh trởng phát triển của cây, trong đó đặc

10-24
3-8
Loại dinh dỡng
Mn (g)
Fe (g)
Zn (g)
Cu (g)
B (g)
Mo (g)
Số lợng
90-180
366-475
50-61
25
25-39
3-7
(Nguồn: HHPBQT - Trung tâm TTKHKT hoá chất, Ngô Thế Dần, 1997)[19]
1.3. Yêu cầu sinh thái của cây đậu tơng
Cây đậu tơng đợc con ngời biết đến cách đây khoảng 5000 năm. Sau
khi phát hiện ra cây đậu tơng, ná đã nhanh chóng phát triển và lan rộng ở khắp
các Châu lục trên thế giới từ 55
0
vĩ Bắc đến 55
0
vĩ Nam, từ vùng thấp hơn mực
nớc biển cho đến vùng cao trên 2000m so với mực nớc biển [9].
1.3.1. Yêu cầu về ánh sáng
ánh sáng là yếu tố ảnh hởng sâu sắc đến hình thái cây đậu tơng vì nó
làm thay đổi thời gian nở hoa và chín, do đó ảnh hởng đến chiều cao cây, diện
tích lá và nhiều đặc tính khác của cây, bao gồm cả năng suất hạt.

0
C, thích hợp nhất là 25
0
C - 30
0
C [12]. Sự sinh trởng dinh dỡng của cây
đậu tơng gồm nhiều giai đoạn khác nhau, nhiệt độ phù hợp nhất cho cây phát
triển là 20
0
C - 28
0
C sự sinh trởng trong thời kỳ này ảnh hởng đến quá trình ra
hoa (ra hoa chậm 5 7 ngày nếu nhiệt độ nhỏ hơn 24
0
C).
Thời kỳ cây con từ lá đơn đến lá kép đậu tơng chịu rét khá, lá kép có thể
phát triển ở nhiệt độ 10
0
C - 12
0
C. Hệ số diện tích lá tăng khi nhiệt độ tăng từ
18
0
C - 30
0
C, nhiệt độ thích hợp cho lá phát triển 22
0
C - 27
0
C. Theo Whigham và

C - 23
0
C và ẩm độ đất từ 75 100%, đậu tơng sẽ đạt
nhiều hoa, quả, hạt to và năng suất tối đa.
9
1.3.3. Yêu cầu về độ ẩm
Nhu cầu về nớc của cây đậu tơng phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, kỹ
thuật canh tác và thời gian sinh trởng.
Độ ẩm là yếu tố chủ yếu hạn chế trong sản xuất đậu tơng. Trong quá trình
phát triển nhu cầu nớc của đậu tơng cao nhất ở thời kỳ hình thành hạt, thiếu
nớc làm giảm trọng lợng hạt. Hạn vào thời kỳ ra hoa, bắt đầu chắc quả sẽ gây
hiện tợng rụng hoa, rụng quả nhiều. Độ ẩm không khí ngày đêm 45 - 47% sẽ
làm giảm năng suất 21% so với bình thờng là 81 84%.
Lợng ma cần thiết cho 1 chu kỳ sinh trởng của cây dao động từ 3.000
5.500m
3
/ha [15]. Hệ số sử dụng nớc từ 1.500 3.000m
3
nớc cho việc hình
thành 1 tấn hạt (Vũ Thế Hùng 1981)[16].
Độ ẩm đất giữ vai trò rất quan trọng với cây đậu tơng, trung bình lợng
nớc cần để đạt đợc một đơn vị sản phẩm, đậu tơng cần 450 750 mm, tuỳ
thuộc vào khí hậu và độ dài giai đoạn dinh dỡng của giống. đậu tơng cần đạt
đủ ẩm ở độ sâu từ 60 130 cm (FAO Geneve - 1991)[17].
Đối với quá trình nảy mầm của hạt cần có sự hút nớc và hô hấp. Nếu thừa
nớc kết hợp với thiếu Oxy trong đất thì tỷ lệ nảy mầm của hạt rất kém. Ngợc
lại tỷ lệ nảy mầm của hạt trên đất khô kém hơn trên đất ớt do vậy để đảm bảo
cho sự nảy mầm, hàm lợng nớc trong hạt phải đạt 50% (Ngô Thế Dân và Cs -
1999)[18].
Trong sản xuất hiện nay, việc xác định thời vụ hợp lý là điều kiện cung cấp

Năng suất
(tạ/ ha)
Sản lợng
(triệu tấn)
2000
74,39
21,69
161,40
2001
76,83
23,15
177,93
11
2002
78,83
23,03
181,55
2003
83,60
22,79
190,59
2004
91,14
22,64
206,40
2005
92,43
23,18
214,24
2006

Năm
Nớc
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
DT
NS
SL
DT
NS
SL
DT
NS
SL
Mỹ
28,84
28,71
82,82
30,19
29,04
87,57
30,56
23,14
70,71
Brazil
22,89
21,92
50,19
22,05
23,80

triệu tấn) năm 2007 của Mỹ đạt 70,71 triệu tấn (giảm 19,25%), Brazil 58,20 (tăng
10,94%), Achentina 45,50 (tăng 12,43%) và Trung Quốc 15,60 (tăng 0,65%).
Một trong những nguyên nhân làm cho năng suất đậu tơng của Mỹ giảm
mạnh là do ngời nông dân đã ít chú trọng đến cây đậu tơng và đã chuyển sang
trồng ngô vì nhu cầu sản xuất nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thức ăn gia
súc tăng mạnh đã đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngời nông dân.
Tình hình sản xuất đậu tơng của các nớc trên thế giới trong năm 2007
cho thấy, năng suất và sản lợng đậu tơng của Mỹ tuy có giảm so với năm 2006
nhng Mỹ vẫn khảng định vị thế của mình về sản xuất đậu tơng thế giới. Với
diện tích trung bình đạt khoảng 29,9 triệu ha với sản lợng khoảng trên 80 triệu
tấn, chiếm 31,74% diện tích và chiếm 37% sản lợng đậu tơng trên thế giới.
Hiện nay, diện tích trồng đậu tơng ở Mỹ đứng thứ 3 sau lúa mỳ, ngô và đợc coi
là mặt hàng có giá trị chiến lợc trong xuất khẩu và thu đổi ngoại tệ. Nguyên
nhân thúc đẩy sản xuất đậu tơng ở Mỹ phát triển là do áp dụng đồng bộ các biện
13
pháp kỹ, tăng năng suất đó trong yếu tố giống đợc chú ý hơn cả. Theo số liệu
thống kê của Bộ Nông Nghiệp Hoa kỳ hiện nay diện tích trồng cây đậu tơng
chuyển gen của Hoa kỳ chiếm 92% trong tổng diện tích trồng đậu tơng trên cả
nớc Chính vì vậy diện tích, năng suất và sản lợng đậu tơng ở nớc này không
ngừng tăng lên trong những năm gần đây.
Brazil là nớc đứng thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ) về tổng diện tích và sản
lợng đậu tơng. Về diện tích trồng chiếm 23,23%, sản lợng là 24,64% so với
diện tích và sản lợng đậu tơng trên thế giới. Qua bảng 1.3 ta thấy năng suất và
sản lợng đậu tơng của Brazil liên tục tăng qua các năm. Năm 2005 năng suất
đậu tơng của Brazil mới chỉ đạt 21,92 tạ/ha và sản lợng là 50,19 triệu tấn
nhng đến năm 2007 năng suất đã tăng lên đến 28,20 tạ/ha (tăng 28,65%) còn
sản lợng là 58,20 triệu tấn (tăng 15,96%). Về diện tích trồng đậu tơng đã giảm
dần qua các năm, năm 2005 là 22,89 triệu ha giảm xuống còn 20,64 triệu ha năm
2007 (giảm 9,83%). Nguyên nhân về sự giảm diện tích của Brazil là do một số
diện tích dự tính trồng đậu tơng đợc chuyển sang trồng mía do nhu cầu mía để

những nhuồn gen quý nhằm mục đích phát huy tiềm năng, năng suất của loại cây
trồng này.
Hiện nay, nhu cầu của con ngời với việc sử dụng các sản phẩm đợc chế
biến từ đậu tơng ngày một tăng. Để đáp ứng đợc điều đó họ đã chú trọng đẩy
mạnh việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học kỹ thuật trong
công tác chọn tạo giống mới. Đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu khác nhau
về cây đậu tơng, nhằm chọn tạo ra những giống nh ý muốn, đáp ứng yêu cầu
sản xuất. Vì vậy hàng loạt các công trình nghiên cứu trên thế giới đợc thực hiện
15
qua các năm, với các phơng pháp nghiên cứu khác nhau nhằm tìm ra những
giống đậu tơng có năng suất cao, phẩm chất tốt.
1.2.2.1. Nghiên cứu hệ số tơng quan và biến dị, di truyền của các tính trạng
số lợng ở đậu tơng
Xác định mức độ biến dị, di truyền của các tính trạng số lợng là cơ sở đầu
tiên để đánh giá về giá trị của nguồn gen và xây dựng chơng trình chọn giống
thích hợp.
Khi nghiên cứu sự biến dị, di truyền ở cây đậu tơng là xác định hệ số di
truyền của các tính trạng khác nhau, mà từ đó dự đoán đợc khả năng chọn lọc
của các tính trạng đó. Tuy nhiên, với một số tính trạng nh tính trạng về năng
suất thì hiệu quả chọn lọc không cao so với các tính trạng khác. Do vậy, các nhà
chọn giống đậu tơng thờng dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu mức độ tơng
quan của các tính trạng đó mà đề ra biện pháp chọn lọc gián tiếp và hợp lý [26].
Mặt khác, để đánh giá mức độ biến dị, di truyền yêu cầu phải thử nghiệm nhiều
lần, ở nhiều nơi qua các năm với nhiều lần nhắc lại của mỗi lần thử nghiện riêng
biệt (Johnson và CTV, 1955)[27].
Năm 1995, Johnson và CTV [28] khi nghiên cứu sự biến dị do di truyền và
do môi trờng của 2 quần thể các dòng đậu tơng, thực hiện nhiều nơi và qua
nhiều năm. Tác giả cho rằng ở quần thể 1 phần lớn biến dị của năng suất hạt là
do môi trờng, còn ở quần thể 2, cho thấy: trong 3 môi trờng nghiên cứu thì 2
môi trờng có phờng sai di truyền cao hơn so với phơng sai môi trờng.

giá trị trung bình các dòng F
4
trên giá trị trung bình của dòng F
3
thì hệ số di
truyền lại đợc xác định là: 77%; 91% và 100%.
Cũng 3 yếu tố trên, Bartley và weber (1952)[37] bằng phơng pháp hồi
quy của giá trị trung bình ở các thế hệ khác nhau cũng có kết luận khác nhau:
Gía trị trung bình của dòng F
3
trên sự biểu hiện của từng cá thể F
2
, hệ số di
truyền đợc xác định 15%, 66% và 85%, ở thế hệ F
4
giá trị trung bình đợc xác
định trên giá trị tring bình của các dòng F
3
thì hệ số di truyền đợc xác định bằng
45%, 62% và 92%.
17
Theo Johnson và CTV (1955a) [38] khi áp dụng phơng pháp phân tích
phơng sai: với nhiều môi trờng nghiên cứu trong 2 năm, các số liệu thu đợc
cho thấy đã xác định đợc hệ số di truyền cao đối với một số tính trạng đậu tơng
nh số ngày từ gieo đến ra hoa, chiều cao cây và số đốt/cây.
Bhatt và CTV (1968)[39] đã xác định khối lợng 1000 hạt có hệ số di
truyền cao và độ dài quả có hệ số di truyền thấp.
Malhotra (1973)[40] cho thấy số hạt/quả có hệ số di truyền cao và số cành
cấp 1 có hệ số di truyền thấp. ở thế hệ F
2

hệ số tơng quan kiểu hình ở tất cả các cặp tính trạng nghiên cứu ( Johnson và
CTV, 1955B [51]; Anand và Torrie, 1963 [52]; Lal và Haque, 1971 [53]; Gautam
và Sing, 1977 [54]; Dencescu, 1982 [55]; Lin và Nelson, 1988 [56] ).
Bên cạnh việc nghiên cứu hệ số tơng quan ở cây đậu tơng thi việc xác
định đặc tính ảnh hởng trực tiếp và gián tiếp của các tính trạng hạt đến năng
suất hạt cũng đợc nhiều tác giả đề cập tới. Phần lớn các kết quả nghiên cứu cho
thấy số quả/cây và khối lợng 1000 hạt dều có ảnh hởng trực tiếp hoặc gián tiếp
lớn nhất đến năng suất hạt ( Lal và Haque, 1971 [57]; Patil và Pokle, 1976 [58];
Mehrotra và Chaudhary, 1983 [59] ).
Ngoài ra nhiều tác giả cũng cho rằng: Phần ảnh hởng trực tiếp hoặc gián
tiếp lớn nhất đến năng suấ hạt lại là thời gian sinh trởng (Sengupta và Kataria,
1971) [60], Số quả/đơn vị diện tích, số hạt/quả (Panday và Torrie, 1973) [61],
chiều cao cây, số đốt/cây, và số hạt/cây (Yap và Lee, 1975) [62].
Ngoài việc nghiên cứu mối quan hệ giữa năng suất hạt với các tính trạng số
lợng, đã có nhiều công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa các đặc tính di truyền
19
về các hình thái sinh vật học của cây đậu tơng với các khả năng thích nghi của
cây đậu tơng và năng suất hạt.
Về đặc điểm hình thái cây đậu tơng một số tác giả đã có nhận xét: Các
giống có lá chét rộng thờng đợc phổ biến trong sản xuất và cũng là các giống
cho năng suất cao hơn các giống có lá chét hẹp. Ngoài ra, hình dạng lá chét cũng
ảnh hởng đến số hạt/quả, các giống có lá chét bình thờng, hình trứng thờng
có 2 đến 3 hạt/quả, cây có lá chét hẹp thờng có 3 đến 4 hạt, còn cây có lá chét
hình bầu dục lại có 1 đến 2 hạt/quả (Hinson và Hartwig, 1977) [63]. Điều đó cho
thấy hình dạng lá chét và số hạt trên quả là do cùng một loại gen quy định.
Đã có những nghiên cứu đánh giá về khả năng nẩy mầm của hạt đậu tơng
thì Potts và cộng sự, 1978 thấy rằng: Các dạng hạt cứng giữ đợc khả năng nẩy
mầm 80% kéo dài đợc 9 tuần sau khi chín, trong khi đó dạng hạt bình thờng
chỉ giữ đợc khả năng nẩy mầm 80% từ 3 đến 4 tuần sau khi chín.
Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa năng suất hạt với các

Australia, và một số nớc khác [68].
Cây đậu tơng là loại cây trồng tự thụ phấn nên các phơng pháp tạo và
chọn lọc giống cũng tơng tự nh các loại cây tự thụ khác, nhng cũng có những
đặc thù riêng cảu nó. Cùng với việc chọn lọc giống theo phơng pháp thông
thờng, công tác chọn lọc các giống theo chỉ số cũng đã đợc áp dụng nghiên
cứu trên cây đậu tơng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên nhng kết quả đạt đợc
khi áp dụng việc nghiên cứu chỉ số chọn lọc ở cây đậu tơng còn hạn chế và cha
thống nhất.
Để tạo ra đợc giống đậu tơng có chất lợng hạt hạt cao ngời ta thờng
dùng hai phơng pháp chính là đột biến và lai tạo. Hoặc đợc xử lý bằng các tia
phóng xạ với liều lợng hác nhau, xử lý hạt rồi đem gieo. Qúa trình gây đột biến
21
thờng cho kết quả nhanh nh mong muốn, rút ngắn thời gian lai tạo. Nhng tạo
giống bằng phơng pháp gây đột biến thờng tốn kém và lám cho các thế hệ sau
biến dị ngày càng lớn hơn, chất lợng của giống giảm dần qua các thế hệ.
Để tạo ra giống có tính ổn định về thời gian, có chất lợng hạt cao ngời ta
thờng dùng phơng pháp lai hữu tính hay là lai trở lại. Con lai trở lại với bố mẹ
đã thích ứng để hoà nhập các gen mong muốn từ gen nhập. Mức độ trở lại của
con lai phụ thuộc hoàn toàn vào độ khác biệt giữa hai bố mẹ. Chọn giống bằng
phơng pháp này đòi hỏi mất nhiều thời gian nhng các giống tạo ra là rất ổn
định, lâu bền rất ít bị thái hoá qua các thế hệ.
Khi nghiên cứu hiệu quả chọn lọc theo chỉ số gồm một hoặc nhiều tính
trạng, Johnson và CTV (1955) [69] đã cho rằng chọn lọc theo các tính trạng gián
tiếp nh thời gian đậu quả, tính chín muộn, hạt to, tính chống tách hạt, chống đổ,
hàm lợng Protein thấp có thể cải lơng về năng suất hạt, nhng mức độ hiệu quả
có khác nhau gia các tính trạng. Trong đó các tính trạng nh thời gian sinh
trởng ở quần thể 1 và khối lợng 1000 hạt ở quần tể 2 có thể thực sự là các tính
trạng khác nhau, các kết quả cho thấy chọn lọc chỉ dựa trên chỉ số gồm thời gian
đậu quả và khối lợng hạt cho hiệu quả tơng đơng nh là chọn lọc trực tiếp.
Khi đa thêm tính trạng chống đổ, hàm lợng dầu và đạm vào chỉ số trên thì hiệu

năng suất hạt nh nhau. Thế hệ F2 của 1000 cây đã trởng thành, cây đợc thu
hoạch riêng và xác định hàm lợng dầu sử dụng kỹ thuật cộng hởng sức hút hạt
nhân hai phần quần thể đợc phát triển: 1 phần gồm 8% hàm lợng dầu cao nhất
và phần kia 8% hàm lợng dầu thấp nhất. Với sự tơng quan nghịch giữa protein
23
thô và dầu, quần thể có hàm lợng dầu thấp chắc chắn sẽ cung cấp những dòng
tập trung protein thô cao. Lấy 200 cây từ hai quần thể trên, tiếp tục làm nh vậy
với F6, F7 thu đợc 18 dòng có hàm lợng đạm cao nhất và 18 dòng này dùng để
đánh giá trong 5 môi trờng cho năng suất hạt, protein và dầu. Hầu hết năng suất
hạt trung bình của những dòng có hàm lợng protein cao giảm 6% so với dòng có
hàm lợng dầu cao, mặc dù khi so sánh năng suất hạt của 2 dòng có hàm lợng
protein cao nhất với hai dòng có hàm lợng dầu cao nhất trong cùng môi trờng,
những dòng có hàm lợng protein cao cho tăng 1% năng suất hạt, 18% protein
thô và giảm 20% dầu. Kết quả cho thấy tiềm năng cho năng suất của những dòng,
giống đậu tơng có chứa hàm lợng protein và hàm lợng dầu cao là nh nhau.
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tơng trên thế giới
Trong công tác chọn tạo giống đậu tơng, từ trớc tới nay có thể sử dụng
nhiều phơng pháp khác nhau nh: thuần hoá, nhập nội, chọn lọc, lai tạo, đột biến
và sử dụng công nghệ sinh học Nhờ xác định đợc chức năng của gen, cũng nh
biết đợc sự liên kết một số gen ảnh hởng đến tính trạng nào đó, mà các nhà chọn
giống đã thành công trong việc lai tạo những giống đậu tơng năng suất cao.
Trên thế giới, số lợng nguồn gen đậu tơng khá phong phú và đa dạng
đang đợc lu giữ ở nhiều nơi, trên nhiều quốc gia nhng phần lớn tập trung ở 15
nớc là: Đài Loan, úc, Trung Quốc, Pháp, Nigêria (IITA), ấn Độ, Inđônêxia,
Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Bắc Triều Tiên, Nam Phi, Thuỵ Điển, Thái Lan, Mỹ
và Liên Sô có tổng số khoảng 45.038 mẫu giống (Trần Đình Long, 1997[75]).
Nhờ công tác trao đổi tài nguyên di truyền và nghiên cứu hợp tác quốc tế.
Hiện nay hầu hết các giống đậu tơng ở Mỹ là cây biến đổi gen và khoảng 1/3
sản lợng đậu tơng ở Braxin cũng từ các giống đậu tơng biến đổi gen. Giống là
khâu then chốt quyết định năng suất đậu tơng. Trong đó điển hình là nớc Mỹ,

0
đến 20
0,
trong đó có Việt Nam [76].
ở Trung Quốc, đây là nơi khởi nguồn của cây đậu tơng. Khi nghiên cứu
nguồn gen trong nớc đã sử dụng công nghệ mới để cải tạo các dạng gen cũ, thay
thế bằng các dạng gen mới phù hợp với mục đích của quốc gia: trong nhiều năm
25
từ 1923 1995 đã công nhận đợc 651 giống đậu tơng, trong đó có hơn 30
giống đậu tơng đang trồng có nguồn gốc từ các nòi của Mỹ.
ở ấn Độ: Tổ chức quốc gia về chơng trình nghiên cứu cây đậu tơng,
AICRPS và NRCS đã đợc thành lập năm 1967, với mục đích tập trung nghiên
cứu về genotyp và đã phát hiện ra 50 tính trạng phù hợp với khí hậu nhiệt đới,
đồng thời phát triển những giống chống chịu cao với bệnh khảm virus. Với nhiệm
vụ tạo và thử nghiệm giống mới, chơng trình này đã tạo ra một số dòng giống có
triển vọng nh KH2b, J202, J231, DS74-24, DS73-16, MACS13 [77].
ở Indonesia mục đích của công tác chọn giống là phát triển những giống
có triển vọng, tức là tạo ra những giống có thể sản xuất tốt trên chân đất thấp sau
trồng lúa, không phải làm đất (làm đất tối thiểu), thời gian sinh trởng ngắn (70
80 ngày), chống bệnh gỉ sắt, hạt có sức sống tốt nh: Willis, Kevinci, Dempo,
Rinani hiện đang đợc trồng rất phổ biến ở Indonesia.
Tổ chức DOAThái Lan tiến hành nghiên cứu về đậu tơng đã chọn tạo ra
những giống có thời gian sinh trởng ngắn (75 95 ngày), phản ứng trung tính
với ánh sáng có năng suất ổn định, phẩm chất tốt, không nứt vỏ, chống chịu sâu
bệnh, khả năng chịu hạn, chịu mặn và ngắn ngày.
Trong nhng năm gần đây, nhằm đáp ứng công tác nghiên cứu về giống
đậu tơng đã có rất nhiều các tổ chức, mạng lới cải tạo giống cây đậu tơng
Quốc tế đợc hình thành nh: INTSOY (chơng trình nghiên cứu đậu tơng
Quốc tế Mỹ), AVRDC (trung tâm nghiên cứu và phát triển rau màu Châu á - Đài
Loan), ACIAR (trung tâm nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia) Nhiệm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status