Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN4 trong điều kiện vụ đông tại trường ĐHNLTN - Pdf 13

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Cây ngô (Zea mays L.) hiện được biết đến là một trong 3 cây ngũ cốc quan
trọng nhất, cung cấp nguồn lương thực chính cho con người. Phân tích thành phần
và hàm lượng dinh dưỡng trong hạt ngô cho thấy: có từ 1,8 - 4,5% protein, 4 - 5%
lipit, 60% glucid (hầu hết lượng chất dinh dưỡng đều tập trung trong phôi). Đồng
thời trong ngô còn chứa nhiều các khoáng chất như Na, K, Mg, F, S, Cl, P và
vitamin A. Chính vì vậy mà cây ngô được coi là nguồn lương thực chính của một số
nước như Mexico, Ấn Độ, Philippin và một số nước Châu Phi khác. Có tới 90% sản
lượng ngô ở Ấn Độ, 66% ở Philippin… được dùng làm lương thực cho con
người (Nguyễn Đức Lương, 1997) [8].
Ngoài ra, cây ngô còn được biết với nhiều vai trò khác nhau như làm nguyên
liệu chế biến thức ăn trong chăn nuôi, nguồn nguyên liệu cung cấp cho các ngành
công nghiệp và nguồn hàng hóa xuất khẩu.
Trong chăn nuôi: Ngô được coi là nguồn thức ăn chính và quan trọng nhất
hiện nay. Hầu như có tới 70% chất tinh trong thức ăn gia súc được tổng hợp từ ngô.
Ngoài việc cung cấp chất tinh, cây ngô còn là nguồn thức ăn xanh và ủ chua lý
tưởng cho đại gia súc, đặc biệt là bò sữa. Theo số liệu thống kê của CIMMYT,
giai đoạn 1997 - 1999, thế giới dùng ngô làm thức ăn cho chăn nuôi là 66% -
khoảng 400 triệu tấn/năm. Các nước phát triển có tỷ lệ dùng ngô làm thức ăn chăn
nuôi cao, thường trên 70%. Một số nước có tỷ lệ này rất cao như: Mỹ 76%, Bồ Đào
Nha 91%, Italia 93%, Croatia 95%, Latvia 98%, Trung Quốc 76%, Malaysia 91%,
Thái Lan 96% (Ngô Hữu Tình) [15].
Ở Việt Nam, ngô tuy chỉ chiếm 12,9% diện tích cây lương thực có hạt,
nhưng có ý nghĩa quan trọng thứ hai sau cây lúa. Gần 30 năm qua, nhất là từ những
năm sau 1990, sản xuất ngô nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
1
2
Năm 2008 là năm đạt diện tích (1125,9 nghìn ha), năng suất (40,2 tạ/ha) và sản

mật độ trong thí nghiệm.
- So sánh và sơ bộ chọn lọc một số công thức mật độ có triển vọng để tiếp
tục khảo sát trong các mùa vụ tiếp theo.
1.4. Ý nghĩa của chuyên đề
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Đối với học tập: Qua thực hiện chuyên đề, giúp sinh viên có điều kiện củng
cố kiến thức và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế. Mặt khác, thông qua thời
gian thực tập sinh viên có điều kiện học hỏi và tích lũy thêm vốn kiến thức của bản
thân, biết cách thực hiện và hoàn thành một khóa luận tốt nghiệp.
- Đối với nghiên cứu khoa học: Giúp sinh viên tiếp cận với công tác nghiên
cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn, tạo tác phong làm việc đúng đắn,
nghiêm túc, sáng tạo, đúc rút được những kinh nghiệm quý báu từ thực tế mà trong
sách vở không có được.
1.4.2. Ý nghĩa trong sản xuất
Làm cơ sở đề ra các khuyến cáo về kỹ thuật phù hợp khi đưa giống vào sản
xuất đại trà, góp phần nâng cao năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của chuyên đề
Trong sản xuất nông nghiệp bên cạnh yếu tố giống thì yếu tố biện pháp canh
tác đóng vai trò rất quan trọng trong tăng năng suất và sản lượng cây trồng. Mỗi
một cây trồng sẽ sinh trưởng và phát triển tốt nhất trong điều kiện đủ ánh sáng và
dinh dưỡng. Điều đó đồng nghĩa với việc cấu tạo cho chúng một khoảng sống phù
hợp, chính là diện tích chiếm của cây trồng trong khu vực canh tác hay nói cách
khác là mật độ và khoảng cách giữa các cây trong ruộng, làm sao để đảm bảo giảm
sự tranh chấp về dinh dưỡng cũng như ánh sáng, đồng thời giúp người sản xuất tiết
kiệm tối đa diện tích gieo trồng có thể.
Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Ngô Việt Nam cho thấy: Mật độ

Mật độ giữa các hàng ngô là những vấn đề được nghiên cứu nhiều và sâu
nhất trong các biện pháp canh tác ngô (Phan Xuân Hào) [6]. Các nghiên cứu chủ
yếu tập trung đi sâu vào 2 vấn đề chính: một là, tăng mật độ gieo trồng nhưng phải
đảm bảo được cung cấp dinh dưỡng, nước đầy đủ; hai là, vấn đề khoảng cách giữa
các hàng ngô phù hợp, sao cho đảm bảo vừa thuận tiện cho khâu chăm sóc, đồng
thời giảm sự cạnh tranh giữa các cá thể về dinh dưỡng, ánh sáng, giúp cây ngô sinh
trưởng và phát triển tốt nhất, cho năng suất tối ưu.
Rất nhiều thí nghiệm liên quan đến mật độ đã được tiến hành dọc theo
vành đai ngô nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Người ta đã nghiên cứu với
mật độ từ hơn 2 vạn đến hơn 20 vạn cây/ha và khoảng cách hàng từ hơn 30cm đến
hơn 200cm [5].
Giai đoạn trước 1940, khoảng cách giữa các hàng chủ yếu phụ thuộc vào
kích thước của ngựa (vốn được dùng chủ yếu trong canh tác ngô ở Mỹ thời đó), và
khoảng cách thuận lợi cho việc canh tác là 100 - 112cm [5]. Tuy nhiên, trước nhu
cầu lượng ngô tiêu thụ ngày càng tăng của thị trường thế giới thì tăng năng suất, sản
5
6
lượng ngô được đặt ra như một vấn đề cấp thiết. Nhiều giải pháp đã được đặt ra để
giải quyết yêu cầu này như: mở rộng diện tích ngô lai, cơ giới hóa và cải thiện các
biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp.
Qua quá trình nghiên cứu, người ta đã nhận thấy việc tăng mật độ gieo trồng
đồng thời thu hẹp khoảng cách hàng sẽ góp phần tăng năng suất và sản lượng ngô.
Hàng loạt các nghiên cứu đã khẳng định điều đó:
- Stickler (1964) ở Kannas kết luận rằng: với cùng một mật độ nhưng khoảng
cách hàng 51cm cho năng suất tăng 5% so với 102cm ở điều kiện khô hạn và 6%
ở điều kiện có tưới. Rossman và Cook (1966) thu được năng suất tăng 14% ở
khoảng cách hàng 46cm so với 91cm ở Michigan [5].
- Colville (1966) qua 9 thí nghiệm ở Nebraska cho thấy năng suất hạt tăng
16% ở khoảng cách hàng 51cm so với 102cm [5].
- Stivers và cộng sự (1971) trong thí nghiệm ở Indiana cho thấy, năng

100 - 112cm sẽ gây hiện tượng lãng phí đất, giảm hiệu quả sử dụng năng lượng mặt
trời của cây; thưa cây tán lá không che phủ hết bề mặt đất sẽ làm tăng lượng thoát
hơi nước dẫn tới hiệu suất sử dụng nước của cây trong các quá trình sinh lý, sinh
hóa bị xuống thấp, đồng thời tạo điều kiện cho cỏ dại xâm lấn, thậm chí lớp đất bề
mặt sẽ bị rửa trôi khi có mưa lớn, làm mất đi một lượng lớn các chất dinh dưỡng
cần thiết cho cây. Tất cả các tác động đó cộng gộp làm giảm năng suất cây ngô
giảm xuống.
Tăng mật độ gieo trồng cũng dẫn tới tăng năng suất, các nghiên cứu ở Liên
Xô cũ và Bun-ga-ri cho thấy, năng suất ngô vẫn tăng khi tăng mật độ đến trên 10
vạn cây/ha với điều kiện đủ ẩm và dinh dưỡng. Trường hợp đủ ẩm nhưng không
bón phân thì càng tăng mật độ, năng suất càng giảm và mật độ tối ưu không vượt
quá 4,5 vạn cây/ha. Trường hợp có bón phân nhưng không đủ ẩm thì khi tăng mật
độ lên 9 - 10 vạn cây/ha vẫn cho năng suất cao hơn trường hợp đủ ẩm nhưng thiếu
7
8
dinh dưỡng. Còn trường không đủ ẩm và dinh dưỡng thì cho năng suất thấp trong
mọi mật độ.
Tại Thái Lan, trong các năm 1994 và 1995, đã làm thí nghiệm với giống ngô
lai DK888 và giống thụ phấn tự do NS1 trên đất 2 vụ lúa, với mật độ 53.333 cây/ha,
80.000 cây/ha và 106.000 cây/ha, đã cho kết quả năng suất cao nhất ở mật độ
80.000 cây/ha và thấp nhất ở mật độ 53.333 cây/ha [5].
2.2.2. Tình hình nghiên cứu về mật độ ở Việt Nam
Từ sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975, theo chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước, tiến hành đẩy mạnh tăng sản xuất nông nghiệp, tập
trung tăng các cây lương thực chính. Trong đó, cây ngô cũng được coi là một trong
những mục tiêu cần đẩy mạnh hướng tới tăng năng suất và sản lượng. Hàng loạt các
giải pháp của các nhà nghiên cứu đã được đề ra như: chọn tạo giống mới, mở rộng
diện tích bằng cách khai hoang và cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác.
Trongđó biện pháp tăng mật độ và thu hẹp khoảng cách hàng cũng được coi là một
trong những hướng đi chủ lực nhằm cải thiện năng suất ngô hiện tại còn quá thấp so

cây/ha, và 3 khoảng cách giữa các hàng là 50, 70 và 90cm. Kết quả cho thấy: Ở
khoảng cách 50cm cho năng suất cao nhất ở tất cả các giống và trung bình 5 mật độ,
năng suất thấp nhất cũng ở khoảng cách rộng nhất 90cm, còn ở khoảng cách 70cm
cho năng suất trung bình. Sai khác rõ nhất cũng ở mật độ 8 vạn cây/ha,ở khoảng
cách 50cm vượt 16,1 và 31,8 % so với 70cm và 90cm.Điều đáng chú ý trong vụ này
là, ở mật độ 7 vạn cây/ha với khoảng cách hàng 40cm, giống LVN10 cho năng suất
cao nhất và giống LVN45 cho năng suất tương đương 8 vạn cây/ha nhưng ở khoảng
cách 50cm. Như vậy chỉ có LVN10 cho năng suất cao nhất ở mật độ 7 vạn với
khoảng cách 50 x 28cm hoặc 40 x 35cm…, còn lại 4 giống khác cho năng suất cao
nhất ở mật độ 8 vạn cây/ha với khoảng cách 50 x 25cm.
Như vậy, qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy: xu hướng tăng năng suất
ngô khi tăng mật độ đồng thời thu hẹp khoảng cách hàng tới một giới hạn nhất định
đủ để đảm bảo cây sinh trưởng, phát triển trong điều kiện có đủ dinh dưỡng và nước
cho cây. Đặc biệt chú ý các giống khác nhau yêu cầu các mật độ và khoảng cách
khác nhau.
2.3. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Có thể nói
rằng, trong 3 cây ngũ cốc chính của loài người: lúa nước, lúa mỳ và ngô thì không
có cây nào sánh kịp với cây ngô về tiềm năng năng suất, về quy mô và hiệu quả của
ưu thế lai.
9
10
Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về các
lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện khí hoá và
tin học vào công tác nghiên cứu và sản xuất.
Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay trên cả
3 phương diện: diện tích, năng suất và sản lượng. Đặc biệt về năng suất, trong
hơn 40 năm gần đây, ngô là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao
nhất trong các cây lương thực chủ yếu. Vào năm 1961, năng suất ngô trung bình

diện tích ngô thế giới là 137,5 triệu ha, đến năm 2009 con số này đã tăng lên 155,7
triệu ha.
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất ngô thế giới trong giai đoạn 2000 - 2010
Năm
Chỉ tiêu
Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn)
2000 136,9 43,25 592,5
2001 137,5 44,77 615,5
2002 137,3 44,04 604,7
2003 144,8 44,56 645,1
2004 147,6 49,41 729,4
2005 147,7 48,39 714,9
2006 148,1 47,69 706,2
2007 158,0 50,10 791,8
2008 161,01 51,09 822,7
2009 155,7 51,80 805,68
11
12
2010 162,32 51,55 820,62
(Nguồn: USDA,2011)
Trong đó tập trung và phân bố không đều ở các khu vực: Châu Mỹ đứng đầu
với 66,07 triệu ha chiếm 44,9%, Châu Á chiếm 30,9% và Châu Phi là 18,4%.
Bảng 2.3: Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2010
Khu vực Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn)
Châu Á 53,50 43,78 234,30
Châu Mỹ 61,58 71,85 442,45
Châu Âu 13,85 60,61 83,96
Châu Phi 29,59 19,42 57,47
(Nguồn: FAOSTART, 20110)
Châu Mỹ là cái "nôi" của cây ngô - Trung tâm phát sinh cây ngô, ngành sản

Theo đánh giá của FAO giai đoạn 1985-1995 tổng sản lượng ngô thế giới có
tốc độ tăng trưởng hàng năm là 1,9%, nhưng lại giảm nhẹ trong những năm gần
đây, nhưng đến năm 2010 tổng sản lượng và năng suất bình quân đều tăng cao hơn
các năm trước.
Hiện nay thị trường ngô trên thế giới được đánh giá là một thị trường
tương đối khả quan, lượng tiêu thụ ngô trên toàn cầu có xu hướng tăng trong những
năm gần đây, sản phẩm ngô chủ yếu dùng làm thức ăn cho chăn nuôi.
Với hiện trạng chung ngành sản xuất ngô của thế giới cho thấy: cây ngô đã
và đang dần chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong các cây lương thực chính
của thế giới. Năm 2007, theo USDA [24], diện tích ngô đã vượt qua lúa nước với
157,8 triệu ha, năng suất 4,9 tấn/ha, sản lượng đạt kỷ lục 766,2 triệu tấn. Với lúa
nước diện tích đạt 153,7 triệu ha, năng suất 4,1 tấn/ha và sản lượng 626,7 triệu tấn.
Còn lúa Mỳ cùng năm đó đạt các con số tương ứng lần lượt là: 217,2 triệu ha, 2,8
tấn và 603,6 triệu tấn (FAOSTAT, USDA.2011).[23]. [24].
2.3.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cây ngô đã được trồng cách đây khoảng 300 năm và được trồng
trên những điều kiện sinh thái khác nhau của cả nước(Nguyễn Đức Lương, 1997)
[8]. Là cây lương thực quan trọng thứ hai sau cây lúa, là cây trồng chính để phát
13
14
triển ngành chăn nuôi. Năng suất ngô ở nước ta trước đây rất thấp so với năng suất
ngô thế giới, do sử dụng giống ngô địa phương và áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất còn hạn chế. Phải tới năm 1991 cây ngô lai mới bắt đầu được đưa vào sản
xuất ở nước ta, tỷ lệ trồng giống lai từ 0,1% năm 1990, năm 2006 đã tăng lên 80%
và đưa Việt Nam trở thành nước sử dụng giống lai nhiều và có năng suất cao của
khu vực Đông Nam Á
Cùng với sự tiến bộ của toàn thế giới, việc phát triển sản xuất ngô ở Việt
Nam trong vài thập kỷ cuối thế kỷ 20 cũng đã thu được những kết quả quan trọng.
Đạt được thành tựu lớn trong sản xuất ngô ở nước ta trong những năm gần đây là
nhờ có những chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước trong việc áp dụng

2006 1.031,7 37,01 3.819,2 >90
2007 1.096,1 39,25 4.303,2 >90
2008 1.125,9 40,61 4.573,1 >90
2009 1.130,0 40,81 4.611,7 >95
2010 1.200,0 41,72 5.006,8 >95
(Nguồn: Niên giám thống kê, 2010; Trung tâm khuyến nông quốc gia, 2011)[12]
Năm 1975, diện tích trồng ngô của nước ta mới chỉ có 267.600 ha, năng suất
đạt 10,42 tạ/ha, sản lượng đạt 278,4 tấn nhưng đến năm 2009 diện tích ngô đã tăng
lên 1.200.000 ha, năng suất đạt 40 tạ/ha, sản lượng 4,8 tấn/năm. Sở dĩ có sự chênh
lệnh quá lớn về năng suất giữa hai thời kỳ trên là do những năm 1975 - 1980 người
dân vẫn chủ yếu sử dụng các giống ngô địa phương có tiềm năng suất thấp. Đồng
thời do trình độ kỹ thuật canh tác và khả năng đầu tư của người dân còn hạn chế.
Số liệu bảng 2.4 cho thấy: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô có sự biến đổi
qua từng giai đoạn:
- Giai đoạn 1990 - 1993: Diện tích có xu hướng tăng đều qua các năm, bình
quân 25,73 ha/năm, năng suất dao động trong khoảng 15 - 17 tạ/ha, sản lượng cao
nhất đạt 882,2 nghìn tấn (năm 1993).
- Giai đoạn 1993 tới nay: Cả diện tích, năng suất và sản lượng đều tăng
lên nhanh chóng: diện tích tăng bình quân 53,7 ha/năm, sản lượng tăng bình
quân 223 tạ/năm, đáng chú ý hơn cả là năng suất đã có những bước tiến nhảy vọt
từ 17,7 tạ/ha (năm 1993) lên 40,24 tạ/ha (năm 2009) (FAOSTAT, 2010) [23].
Điều đó minh chứng cho sự đúng đắn trong các chính sách của Đảng và Nhà
nước ta khi đưa các giống ngô lai có tiềm năng năng suất vào sản xuất đại trà,
thay thế cho các giống ngô địa phương suất thấp. Trong vòng 4 năm 1993 - 1996
tỉ trọng ngô lai đã tăng từ 12% năm 1993 lên 40% (năm 1996) về diện tích, đạt
tốc độ tăng trưởng bình quân 57,5%, cho tới nay diện tích ngô lai đã chiếm trên
15
16
95% tổng diện tích trồng ngô của cả nước. Đây được coi là một nhân tố mới,
nguồn động lực chính, một định hướng chiến lược trong chương trình nghiên cứu

Qua bảng 2.6 cho thấy rõ sự chênh lệch giữa các vùng về cả diện tích, năng
suất và sản lượng:
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy diện tích sản xuất ngô lớn nhất
(443,4 nghìn ha) nhưng năng suất lại thấp nhất trong cả nước (34,5 tạ/ha). Ngược
lại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long diện tích sản xuất nhỏ nhất (37,1 nghìn ha),
nhưng lại cho năng suất cao nhất (51,8 tạ/ha). Sự trái ngược này có thể được giải
thích do nhiều nguyên nhân: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy có diện tích
lớn song chủ yếu tập trung ở các vùng miền núi, diện tích rải rác nhỏ lẻ thuộc các
vùng dân tộc ít người. Họ không có đủ điều kiện đầu tư về vốn cũng như các biện
pháp kỹ thuật canh tác phù hợp mà chủ yếu canh tác theo lối truyền thống lạc hậu.
Cộng thêm vào đó là các điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng, khí hậu khắc nghiệt
với hạn hán và rét kéo dài vào mùa đông, lượng mưa phân bố không đều trong năm
dẫn tới năng suất thấp. Tuy nhiên, với ưu thế về diện tích (chiếm 40,8% diện tích
của cả nước) nên sản lượng chung của vùng vẫn cao hơn các vùng khác trong cả
nước đạt 1.527,6 nghìn tấn chiếm 34,45% sản lượng của cả nước và trở thành một
trong những vùng sản xuất ngô trọng điểm cung cấp lượng ngô lớn nhất cả nước.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có năng suất cao nhất đạt 51,8 tạ/ha bằng
127% năng suất của cả nước do vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi, phù hợp với
yêu cầu sinh trưởng, phát triển của cây ngô như: nhiệt độ bình quân cao 25 - 30
o
C,
nguồn ánh sáng dồi dào, hệ thống thủy lợi đảm bảo nhu cầu tưới tiêu, nền đất có độ
17
18
phì nhiêu cao. Tất cả các điều kiện tự nhiên kết hợp với các biện pháp kỹ thuật canh
tác phù hợp đã dẫn tới sự tăng vọt năng suất trung bình của vùng so với cả nước.
Một vùng cũng được xem là trọng điểm sản xuất ngô của cả nước phải kể
đến Tây Nguyên với diện tích 242,1 nghìn ha đứng thứ 2 sau vùng Trung du và
Miền núi phía Bắc và năng suất trung bình đạt 47,9 tạ/ha. Hàng năm vùng cung cấp
một lượng ngô lớn cho cả nước.

1 Hà Giang 43,3 46,4 46,8 20,9 24,1 25,9 90,7 111,7 121,4
2 Cao Bằng 37,2 38,4 37,2 29,3 29,3 29,8 109,1 112,7 111,0
3 Lào Cai 26,6 28,8 29,6 28,5 28,0 31,3 75,8 80,7 92,6
4 Lạng Sơn 19,1 20,7 20,2 46,6 45,8 46,0 89,0 94,9 82,9
5 Tuyên Quang 17,7 16,2 14,8 41,4 41,2 42,3 73,2 66,7 62,6
6 Bắc Kạn 16,1 16,7 16,0 34,5 35,0 34,9 55,6 58,4 55,9
7 Lai Châu 17,8 18,2 18,9 21,1 22,1 22,2 37,5 40,2 42,0
8 Sơn La 117,8 132,3 132,1 37,7 38,1 39,7 444,0 503,5 524,3
9 Quảng Ninh 6,3 6,8 6,3 33,7 35,0 36,7 21,2 23,8 23,1
10 Thái Nguyên 17,8 20,6 17,4 42,0 41,1 38,6 74,8 84,6 67,2
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2010) [12]
Qua bảng 2.7 cho thấy các tỉnh Sơn La, Hà Giang, Lai Châu, Cao Bằng là
các tỉnh có diện tích trồng ngô lớn, hàng năm diện tích trông ngô đều đạt từ 37,2-
132,3 nghìn ha, tiếp theo là Lào Cai các năm đều có diện tích trồng ngô đạt hơn 14
nghìn ha. Riêng có Quảng Ninh có diện tích trồng ngô thấp, hàng năm chỉ có hơn 6
nghìn ha ngô.
Về năng suất ngô thì Lạng Sơn, Thái Nguyên và Tuyên Quang là 3 tỉnh có
năng suất ngô hàng năm đạt cao nhất vùng từ 38-46 tạ/ha.
Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Sơn La và Quàng Ninh là những tỉnh có năng
suất ngô đạt khá cao trên 20-39 tạ/ha.
Về sản lượng: Sơn La là tỉnh có sản lượng ngô đạt cao nhất, năm 2007 đạt
444,0 nghìn tấn, đến năm 2009 lại tăng lên 524,3 nghìn tấn do diện tích trồng ngô
hàng năm lớn (117-132 nghìn ha). Tiếp theo là các tỉnh QuảngNinh và hai tỉnh có
sản lượng ngô thấp nhất vùng, hàng năm chỉ đạt từ 21-58 nghìn tấn.
20
21
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy ngành sản xuất ngô của nước ta đã có
những bước tiến quan trọng trong suốt hơn 30 năm đổi mới, năng suất, diện tích và
sản lượng đều tăng mạnh trong gần 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, khi so sánh với
tình hình sản xuất ngô chung của thế giới thì ngành sản xuất ngô Việt Nam vẫn còn

tổng diện tích 3.541km
2
, trong đó đất canh tác Nông nghiệp chiếm 23%. Cây ngô
chủ yếu được trồng trên đất 2 lúa: vụ Đông trên đất đồi dốc và vụ Xuân hè. Trước
năm 1995, diện tích trồng ngô chủ yếu vẫn dùng các giống thụ phấn tự do giống địa
phương có năng suất thấp.
Cùng với sự chuyển biến của đất nước, Thái Nguyên cũng mạnh dạn thay đổi
cơ cấu cây trồng, áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đặc biệt là thay thế
các giống thụ phấn tự do bằng các giống ngô lai. Do đó cho đến nay, diện tích và
năng suất không ngừng tăng lên. Tình hình sản xuất ngô ở Thái Nguyên được thể
hiện qua bảng 2.6 :
Bảng 2.8. Tình hình sản xuất ngô ở Thái Nguyên giai đoạn 2001 - 2009
Năm Diện tích (nghìn ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (nghìn tấn)
2001 9,7 30,6 29,7
2002 11,6 32,8 38,0
2003 13,4 32,6 43,7
2004 15,9 34,3 54,6
2005 15,9 34,7 55,1
2006 15,3 35,2 53,9
2007 17,8 42,1 74,9
2008 20,6 41,1 84,7
2009 17,358 39,16 67,98
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010) [12]
Nhìn chung diện tích, năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên cũng
đạt được những tiến bộ đáng kể. Từ năm 2001 đến 2009, diện tích trồng ngô toàn
tỉnh tăng từ 9,7 nghìn ha lên 17,358 nghìn ha, đạt tốc độ tăng trưởng 0,85 nghìn ha
22
23
mỗi năm. Năng suất ngô năm 2007 của tỉnh đạt 42,1 tạ/ha, cao hơn 3,6 tạ/ha so với
năng suất ngô trung bình của cả nước.

Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Trong đó thứ tự các công thức như sau:
Ghi chú:
Công thức Mật độ (vạn cây/ha) Khoảng cách (cm)
1 (Đối chứng) 7 70 x 25
2 8 50 x 25
3 7 50 x 28
4 6 50 x 33
- Đặc điểm đất đai thí nghiệm: Thí nghiệm được bố trí trên đất cát pha,
thành phần cơ giới nhẹ, chuyên trồng màu.
3.4.2. Quy trình kỹ thuật trồng trọt áp dụng trong thí nghiệm
Quy trình kỹ thuật được áp dụng theo quy trình của Viện nghiên cứu ngô
Trung ương.
- Phân bón:
+ Phân hữu cơ: 10 tấn phân chuồng/ha
+ Phân vô cơ: Bón theo công thức 150N + 90P
2
O
5
+ 90K
2
O tương đương với
lượng thương phẩm
Đạm urê: 326,08kg/ha
Lân supe: 562,45 kg/ha
Dải bảo vệ
NL1 CT1 CT2 CT3 CT4
NL2 CT2 CT3 CT4 CT1
NL3 CT3 CT4 CT1 CT2
Dải bảo vệ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status