Diễn biến khủng hoảng tài chính argentina giai đoạn 1999 2002 và bài học cho việt nam - Pdf 14


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Tiểu luận
DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ARGENTIN A
GIAI ĐOẠN 1999-2002 VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: TS.Mai Thu Hiền
Nhóm thực hiện: Nhóm 5
72. Nguyễn Huy Thành
33.Nguyễn Thị Mai Hương
52. Đinh Văn Nghị
76. Nguyễn Thị Minh Thu
88. Đỗ Quang Tùng
Lớp: TCNH 19A

Hà Nội - Năm 2013
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Khái quát chung về đặc điểm tự nhiên – xã hội của Argentina 3
2. Giai đoạn phát triển thần kì 1992 - 1998 4
3. Những dấu hiệu bất ổn – Khủng hoảng xảy ra: 6
4. Khủng hoảng Argentina 2001-2002 (giai đoạn sau 2001) 9
PHẦN II: N GUYÊN NHÂN KHỦNG HO ẢNG ARGENTINA 13


I
II. Bài học kinh nghiệm: 28

LỜI MỞ ĐẦU
Nhắc đến Argentina, người ta nhớ ngay đến điệu nhảy Tango nổi tiếng,
nhớ đến nền văn hóa tiêu biểu cho văn hóa Mỹ Latinh: dân dã, đầy chất bốc
lửa, say đắm và quyến rũ, nhớ tới những con người thân thiện, hiếu khách, cởi
mở. Tất cả tạo nên một Argentina đặc sắc, khiến cho bước chân của những du
khách tới thăm đất nước xinh đẹp này cứ lưu luyến mãi không thôi. Không
chỉ văn hóa, thế giới còn biết đến một Argentina có nền kinh tế phát triển nhất
ở Mỹ Latinh với GDP tính theo sức mua tương đương là 599,1 tỉ USD, đứng
thứ 22 thế giới. Thu nhập bình quân đầu người là 15.000 USD với nguồn tài
nguyên thiên nhiên giàu có, dân số được đào tạo cao, ngành nông nghiệp theo
hướng xuất khẩu, công nghiệp đa dạng.
Tuy nhiên, trong khung nhạc phát triển đất nước, ngoài những nốt thăng
rực rỡ còn in dấu những nốt trầm. Đó là khủng hoảng nợ, thất nghiệp, lạm
phát… điển hình phải kể đến cuộc khủng hoảng 2001. Tháng 12/2001, hệ
thống ngân hàng Argentina sụp đổ, nhấn chìm một trong những trung tâm
kinh tế năng động và thành công tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một
đêm, đất nước này đã rơi vào cảnh đói nghèo, chỉ trong vòng 5 tuần 5 vị tổng
thống lên chức xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống đường
biểu tình… Nợ nước ngoài: 160 tỷ USD (tức 40% GDP của Argentina bằng
1/7 tổng nợ của các nước đang phát triển); thâm hụt ngân sách năm 2001: 6,5

khu vực đất đai rộng lớn bao quanh Patagonia nằm ở phía Nam, dãy Andes gồ
ghề chạy dọc biên giới phía Tây.
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên: các vùng đồng bằng màu mỡ ở
Pampas, chì, kẽm, thiếc, đồng, quặng sắt, mangan, dầu lửa, uranium.
Vì trải dài trên nhiều vĩ độ và chênh lệch độ cao lớn, Argentina có nhiều
kiểu khí hậu khác nhau. Ôn đới là kiểu khí hậu chi phối, kiểu khí hậu cận
nhiệt hiện diện ở miền Bắc và kiểu khí hậu cận cực hiện diện ở miền Nam đất
nước. Khí hậu miền Bắc có đặc điểm mùa hè nóng ẩm ướt và mùa đông khô
vừa, thỉnh thoảng gây hạn hán trong một thời gian. Miền Trung có mùa hè
nóng với sấm chớp và mùa đông lạnh. Các vùng phía Nam có mùa hè ấm áp,
mùa đông lạnh với những trận mưa tuyết lớn, đặc biệt trong vùng núi. Càng
lên cao, khí hậu càng lạnh giá.
Argentina là nước cộng hòa lập hiến. Hiến pháp Argentina được sửa đổi
năm 1994. Tổng thống được bầu cử trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm và có thể
được tái cử một lần.
Cơ quan lập pháp Argentina bao gồm quốc hội lưỡng viện (gồm
cả Thượng viện và Hạ viện).
- Các đảng phái chính trị: Argentina có 25 đảng chính trị hợp pháp.
- Cơ cấu hành chính: Gồm 1 thành phố tự trị (Buenos Aires) và 23 tỉnh
2. Giai đoạn phát triển thần kì 1992 - 1998
Từ những năm 1980, Argentina chìm đắm trong chế độ quân chủ chuyên
chế và từ sau năm 1983 thì nước này mới có sự thay đổi về chế độ. Tuy vậy,
những hậu quả mà chế độ quân chủ chuyên chế tạo ra là rất sâu sắc và kéo dài
với các khoản nợ nước ngoài khổng lồ và một nền kinh tế rối ren, hỗn loạn.
Những nỗ lực của chính quyền mới (dưới thời Tổng thống Alfonsin)
bằng việc đưa ra đồng tiền mới (đồng Austral) thay thế đồng tiền cũ đang lưu
hành để chi trả các khoản nợ nước ngoài. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã

Với 3 giai đoạn cải cách 1991.
1995, 1998, thị trường việc làm linh hoạt ở nước này đã được cải thiện đáng
kể, điển hình là số lượng công nhân được kí kết hợp đồng và được dào tạo
tăng từ 6% năm 1995 lên 12% năm 1997.Năng suất lao động trung bình tăng
3% từ 1991-1998.GDP tăng trưởng từ mốc giảm liên tục 0.5% trong suốt
những năm 1980 đã bật mạnh mẽ lên tới hơn 10% trong 2 năm đầu tiền của
chính sách cải cách và 5% năm 1993-1994.
 Kết quả: lạm phát giảm đáng kể, ổn định giá được đảm bảo, và
giá trị của tiền tệ được bảo tồn.
Những yếu tố đó khiến Argentina
được ngợi khen như là một điển hình của
sự thần kỳ mới và là một trong những
“học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận.

3. Những dấu hiệu bất ổn – Khủng hoảng xảy ra:
Nhìn chung, việc ban hành Luật Chuyển đổi đã có những tác động tích
cực trong việc kiểm soát lạm phát, nhưng mặt trái của nó là ở chỗ:
Thứ nhất, để duy trì được tỷ giá 1 ARA = 1 USD, NHTƯ Argentina phải
có lượng dữ trữ ngoại tệ Iớn để sẵn sàng can thiệp thị trường bất cứ lúc nào và
với bất cứ dung lượng nào. Tuy vậy, Argentina lại không đáp ứng được đòi
hỏi tiên quyết này. Thực tế là họ đã phải bù đắp lượng ngoại tệ bị thiếu hụt so
với yêu cầu dự trữ để can thiệp thị trường bằng việc tăng cường vay nợ nước
ngoài. Cố thể nói, việc duy trì chính sách tỳ giá theo "chuẩn tiền tệ" như vậy
quả là quá tốn kém mà lại hết sức mong manh, thiếu sự bền vững.
Thứ hai, việc duy trì tỷ giá 1 ARA = 1 USD mặc dù giúp kiểm soát lạm
phát (thông qua khống chế lượng Peso được phát hành phù hợp với lượng
USD giao dịch trên thị trường), nhưng điều này lại khiến cho ngân sách Chính

tạp, hầu như rất khó kiểm soát và ngăn chặn, nên ngân sách Argentina vốn đã
bị thâm thủng lại càng bị làm trầm trọng hơn.
Vì thế, những dấu hiệu bất ổn đầu tiên đã xuất hiện:
 Cuối những năm 90, chính phủ
Argentina đã tận dụng uy tín đang lên
của quốc gia để liên tục vay nợ nước
ngoài, các khoản nợ nước ngoài âm
thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng
an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP
(35% trong năm 1995 cho đến gần
65% năm 2001).
 Cuối thập kỷ 90, đồng dollar
Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng giá theo so với đồng tiền các
nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất
khẩu của Argentina
 Năm 1994 khủng hoảng đồng peso Mexico làm ảnh hưởng đến nguồn
vốn, mất nguồn tiền gửi ngân hàng, và khủng hoảng nghiêm trọng trong thời
gian ngắn; một loạt chính sách cải cách để nâng đỡ hệ thống ngân hàng trong
nước được đưa ra. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được phục hồi nhanh
chóng, đạt 8% vào năm 1997.
 Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các
nước đang phát triển trên thế giới
 Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga
và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước
tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng
của nền kinh tế.
 Năm 1999 Brazil buộc phải phá giá đồng real 29% làm ảnh hưởng rất

Argentina đạt được sức mạnh như họ đã từng có.

 Diễn biến:
Năm 2001, những bất ổn đạt đến đỉnh cao, với mức tiêu dùng vào cuối
quí 3 giảm sâu tới 5,8% và đầu tư giảm 17,5%, kéo theo tăng trưởng GDP âm
và thất nghiệp tăng cao kỷ lục (18,3%).
 Ngày 12/1/2001, do kinh tế của Argentina vẫn còn suy thoáỉ
mạnh, IMF tăng thỏa thuận ngày 10/3/2000 lên 7 tỷ USD như một phần của
gói 40 tỷ USD viện trợ cả gói liên quan đến Ngân hàng Phát triển Trung Mỹ,
WB, Tây Ban Nha và tư nhân cho vay. Thỏa thuận này nhằm đảm bảo GDP
của nước này sẽ tăng trưởng ở mức 2,5% năm 2001 (thực tế năm 2001 GDP
nước này tăng trưởng - 5%).
 Ngày 17/6/2001, Chính phủ thông báo khoản nợ trị giá 29.5 tỷ
USD được hoán đổi từ khoản nợ ngắn hạn thành khoản nợ mới với thời gian
đáo hạn dài hơn và lãi suất cao hơn.
 Ngày 19/6/2001, giảm giá 7% đồng Peso trong tương quan so
sánh với USD, đối với thương mại hàng hóa với kỳ vọng cải thiện năng lực
cạnh tranh thương mại quốc tế của nước này.
 Ngày 29/7/2001, Quốc hội thông qua “Luật Thân hụt bằng 0”,
đòi hỏi một ngân sách cân bằng vào quí IV/2001.
 Ngày 7/9/2001, dựa trên những cam kết của Argentina thực thi
Luật Thâm hụt bằng bằng 0, IMF tăng cam kết cho vay lên 7,2 tỷ USD.
 Tháng 10/2001, Chính phủ sử dụng trái phiếu địa phương “scrip”
để trả lương một cách phổ biến khi nguồn thu ngân sách Chính phủ bị giảm

bắt đầu thiếu tiền mặt
 Ngày 19/4/2002, NHTƯ Argentina quyết định tạm ngừng vô thời
hạn tất cả các giao dịch ngoại hối cho tới khi Chính phủ có được một chương
trình kinh tế ngăn chặn dòng vốn tháo chạy ồ ạt khỏi các ngân hàng thương
mại (NHTM) (trung bình khoảng 100 triệu USD/ ngày). Song, quyết định này
cũng không tồn tại được lâu, bởi ngày 26/4/2002, tức là chỉ 1 tuần sau khi
ngưng hoạt động, các NHTM nước này mở cửa trở lại, tình hình càng trở nên
tồi tệ hơn rất nhiều.
Những bất ổn về chính trị cộng với những sai lầm của Chính phủ trong
ứng phó với khủng hoảng (thực hiện chế độ đa tỷ giá, áp dụng các biện pháp
kiểm soát hành chính đối với giá cả, các biện pháp bảo hộ khác.) đã khiến cho
tình hình ngày càng trở nên xấu đi trong năm 2002: thị trường chứng khoán
suy sụp, đồng Peso bị mất giá mạnh, lạm phát bùng phát, thất nghiệp gia tăng,
tăng trưởng kinh tế giảm sút nghiêm trọng.

PHẦN II: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
ARGENTINA
I. Nguyên nhân nội tại
1. Hệ thống chuẩn tiền tệ c urrency board:
Theo TS. Quách Mạn h Hào, một currency board tồn tại khi NHTW một
quốc gia cam kết hỗ trợ tiền tệ quốc gia, mức cung tiền, bằng dự trữ nước


Đầu tiên, là việc NHTW không thể tự chủ trong chính sách tiền tệ.
Nguyên nhân là do lãi suất của đồng nội tệ phải đúng bằng lãi suất của đồng
ngoại tệ, nếu không hoạt động arbitrage sẽ xảy ra. Do đó, NHTW không thể
giảm lãi suất để kích thích đầu tư hoặc tăng lãi suất để kiềm hãm lạm phát.

Thứ hai, currency board có khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu
tư trong nước kinh doanh quốc tế vay nợ bằng ngoại tệ mà không hề có bất cứ
biện pháp phòng ngừa rủi ro nào cả, dẫn đến vay nợ quá mức. Chính vì vậy
mà khi khủng hoảng xảy ra, các nhà đầu tư này sẽ là những người chịu thiệt
hại lớn nhất.

Thứ ba, NHTW không thể thực hiện chức năng là người cho vai cuối
cùng (nguyên nhân là do hệ thống currency board quy định không cho phép
ngân hàng phát hành tiền nếu không có lượng ngoại tệ tương ứng bổ xung).
Do đó, khi khủng hoảng niềm tin xảy ra, NHTW không thể cung cấp cho các
NHTM những khoản vay ngắn hạn được, làm cho các NHTM này không thể
chi trả các khoản nợ sắp đáo hạn cho khách hàng. Cuối cùng, tất yếu là hệ
thống ngân hàng sẽ sụp đổ.

Thứ tư, do không thể in thêm tiền và dự trữ ngoại tệ ngày càng ít đi
nên ngân sách chính phủ sẽ bị thâm hụt nghiêm trọng. Chính vì vậy, chính
phủ Argentina phải bù đắp thăm hụt ngân sách bằng các khoản vay nợ từ
nước ngoài. Điều này làm cho tình trạng nợ nước ngoài của Argentina ngày
càng gia tăng.

Thứ năm, chính sách currency board làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày

lãi suất để bù đắp ngân sách). Nhiều công ty trong nước đã phải đóng cửa vì
tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán. Sự thâm
hụt ngân sách quá lớn tạo ra tình trạng lo sợ rằng chính phủ sẽ mất khả năng
trả nợ. Chính phủ gặp khó khăn trong việc khuyến khích mọi người mua trái
phiếu của mình và không thể tài trợ bằng các khoản cho vay nước ngoài; để
xử lý vấn đề khó khăn về ngân sách, chính phủ buộc các ngân hàng phải mua
một lượng lớn trái phiếu. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khà năng của
chính phủ trong việc hoàn trả các khoàn nợ, thì giá của chúng giảm xuống, tạo
nên một lỗ hổng lớn trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại.
Sự suy yếu như vậy trong bảng tổng kết tài sản làm ngân hàng có ít nguồn lực
để cho vay và tình hình thiếu vốn cho vay góp phần tạo ra sự thu hẹp trong
hoạt động kinh tế.
3. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm:
Sai lầm đầu tiên của chính phủ Argentina là việc tự do hóa hoàn toàn hệ
thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa hoàn toàn gần như tất cả các ngân
hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít tổ chức tài chính trung bình và lớn
cho nước ngoài. Hệ thống ngân hàng tiềm ẩn những yếu kém đã làm suy yếu
dần khả năng chống chịu trước những cú sốc, và cả chế độ tỷ giá cố định 1
peso đổi 1 đô la. Trước hết, các ngân hàng hoàn toàn thiếu những quy định
được quy định rõ ràng để phòng ngừa những hậu quả lên khả năng thanh toán
của khu vực phi mậu dịch của việc điều chỉnh tỷ giá thực dẫn tới không cân
bằng. Do không có sự mất giá danh nghĩa, điều chỉnh này sẽ dẫn tới thời kỳ
lạm phát danh nghĩa và thất nghiệp chậm chạp. Thứ hai, hệ thống tài chính
ngày càng tư nhân hóa và trở nên quá yếu đuối trước tình trạng khủng hoảng
nợ nước ngoài không thể kiểm soát được. Thứ ba, những biện pháp bảo vệ
thanh khoản cho hệ thống ngân hàng cho phép bất cứ người gửi tiền nào rút
tiền, cho thấy sự không phù hợp của hệ thống thanh toán khi tình trạng rút

II. Ảnh hưởng từ bên ngoài
1. Các tổ chức tin dụng quốc tế (IMF)
Trong suốt những năm 90, A rgentina trở thành một của tổ chức quốc tế,
đặc biệt đối với IMF. Đây được coi như hình mẫu cho các nền kinh tế mới nổi
noi theo. Tổ chức Tiền tệ thế giới đã ủng hộ cho các chính sách kinh tế vĩ mô
các cải cách quan trọng trong nền kinh tế (tự do hóa thị trường tài chính, tư
nhân hóa, cải cách hệ thống tiền lương…) của chính phủ Argentina. Ban đầu,
IMF có chú t hoài nghi về quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, bằng chứng về
việc Argentina đã vượt qua được khủng hoảng Tequila (tên gọi khác của
khủng hoảng Mexico) đã thuyết phục các nhà chức trách của IMF. Bất chấp
những con số cho thấy kinh tế tăng trưởng bền vững , một phần lớn người dân
ko được hưởng lợi từ những thành quả của nền kinh tế: trong suốt những năm
90, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tỷ lệ người nghèo vẫn duy trì ở mức cao và sự
bất bình đẳng trong xã hội ngày một trầm trọng. Điều này cho chúng ta thấy
những con số đó đã được đánh giá quá cao so với giá trị thật của nó, đây
cũnng là một trong những nguyên nhân khiến cho chính phủ Argentina chủ
quan vào những chính sách của mình trong suốt những năm 90.
Khi Argentina lâm vào khủng hoảng, tháng 11/2000 IMF hợp tác WB ,
IDB thông qua chương trình hỗ trợ với quy mô lớn, tên gọi “el blindaje”. IMF
đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện nước này phải thắt chặt các chính
sách tài chính, như không để tham hụt ngân sách và nâng lãi suất. “Blindaje”
- chương trình được thiết kế đặc biệt với mục đích làm giảm sự lan truyền của
khủng hoảng và kích thích tăng trưởng đã thất bại. Xác suất thành công vô
cùng thấp, tỷ lệ vẫn duy trì ở mức ban đầu. Cụ thể : chương trình chỉ hoạt
động hiệu quả trong 2 tháng, sau đó bắt đầu đi xuống. Những chính sách của
chương trình này dẫn đến những cuộc biểu tình và đình công khắp quốc gia.
Vào cuối năm 2001, khi tình hình đất nước đang vô cùng khó khăn với

và Chính phủ đã phải để cho một số ngân hàng phá sản. Tuy Argentina đứng
vững mặc dù GDP giảm 4% nhưng điều đó đã phản ánh sự thiếu niềm tin vào
cơ chế Hội đồng tiền tệ (currency board).
3- Brazil : Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề
của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong
nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng
trưởng của nền kinh tế.
Vào năm 1999, Brazil đã phá giá đồng real 29%. Do tỷ giá USD/Peso cố
định nên sau khi đồng USD tăng giá so với đồng real thì đồng peso cũng tăng
giá so với đồng real. Trong khi Argentina là nước xuất khẩu nhiều hơn nhập
khẩu mà Brazil lại là đối tác chính yếu của Argentina, việc tăng giá đó đã làm
tính cạnh tranh của xuất khẩu suy giảm dẫn đến lượng hàng xuất khẩu vào
Brazil giảm làm cho nguồn thu ngoại tệ của Argentina giảm đáng kể.
PHẦN III: KẾT LUẬN
I. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Argentina:
1. Khu vực Mỹ – Latin
1) Tổng thống Brazil Fernando Henrique Cardoso khẳng định, cuộc
khủng hoảng kinh tế tại Argentina - đỉnh điểm là việc Tổng thống Fernando
de la Rue xin từ chức - sẽ chỉ dừng lại trong phạm vi lãnh thổ đất nước này,
không đủ mạnh để lan sang các quốc gia trong khu vực.
2) Các nhà kinh tế cho rằng, tính chất cuộc khủng hoảng tại

Theo IMF, ngưỡng nợ công được coi là thận trọng cho các nước mới nổi
là 40%/GDP. Với mức này, IMF khuyến cáo Việt Nam nên giảm mức nợ
công, bồi nợ công của Việt Nam tính theo GDP có khả năng cao hơn nữa do
các nguyên nhân sau: (i) Nhu cầu cho xây dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam
trong thời kỳ 2006 - 2010 lên tới 11- 13% GDP/năm. Trong đó, nhiều mặt
hàng nguyên liệu cho xây dựng phải nhập khẩu như sắt, thép Với tỷ giá
VND/USD cao; (ii) Tín dụng quốc tế của Chính phủ với các tổ chức quốc tế
và NHTƯ các nước có thể vẫn tăng; (iii) Khả năng cắt giảm đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng nó còn phụ thuộc vào quyết
sách và quyết tâm của Chính phủ; (iv) Cơ chế quản lý tài chính công của Việt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status