Một số đặc điểm dịch tễ học của nhiễm khuẩn bệnh viện do vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 tại bệnh viện Việt Đức-Hà Nội, 2010-2011 - Pdf 14


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện (Hospital-Acquired Infections - HAI) (NKBV) là
nhiễm khuẩn mà bệnh nhân mắc phải trong thời gian nằm viện là một trong
những nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ mắc, tử vong cao cho các bệnh nhân tại
các bệnh viện trên thế giới [137]. NKBV thường gây nên do các vi khuẩn kháng
đa kháng sinh, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều trị, kéo dài thời gian
mắc bệnh, nguy cơ tử vong cao [112]. Khi vi khuẩn kháng lại 1 kháng sinh phải
thay thế bằng những kháng sinh thế hệ mới có giá thành cao hơn gây nên những
thiệt hại lớn về kinh tế. Tại liên minh châu Âu, tỷ lệ tử vong hàng năm do bị
nhiễm các chủng vi khuẩn kháng thuốc là 25.000 ca và tại Mỹ là hơn 63.000 ca,
và gây thiệt hại cho nền kinh tế bao gồm chi phí điều trị và tạo ra ít sản phẩm lao
động. Mỗi năm tại châu Âu là 1,5 tỉ Euro và Mỹ là 1,87 tỉ đô la, cao hơn rất
nhiều chi phí cho công tác phòng chống bệnh cúm [43].
Từ năm 2000, sự lây lan nhanh chóng của các chủng vi khuẩn Gram âm là
căn nguyên quan trọng gây nhiễm khuẩn bệnh viện có khả năng sinh ra các
enzyme (extended-spectrum beta-lactamases; ESBLs) ly giải hầu hết các kháng
sinh phổ rộng thuộc nhóm cephalosporin đã được ghi nhận trên toàn thế giới
[103]. Carbapenem là nhóm kháng sinh mạnh nhất “thuộc nhóm lựa chọn cuối
cùng” được sử dụng để điều trị cho các trường hợp bị nhiễm khuẩn bệnh viện
nặng do các chủng vi khuẩn Gram âm sinh enzym ESBLs. Tuy nhiên do sử dụng
rộng rãi loại kháng sinh này đã tạo áp lực cho vi khuẩn kháng lại carbapenem
[89]. Enzym ly giải carbapenem mã hóa bởi gen KPC, IMP và VIM được phát
hiện ở khắp nơi trên thế giới [89;108]. Enzym OXA-48 ly giải carbapenem tập
trung chủ yếu ở các quốc gia vùng Địa Trung Hải, châu Âu và Ấn Độ
[82;101;102]. Đặc biệt gần đây nhất vào năm 2008, giới khoa học đã công bố
thông tin chấn động, gây quan ngại lớn cho toàn thế giới về việc phát hiện ra các
chủng vi khuẩn kháng carbapenem mang gen New Delhi metallo-beta-
lactamase-1 (NDM-1) ở bệnh nhân người Thụy Điển có tiền sử chữa bệnh tại Ấn

kháng sinh nói chung trong đó có carbapenem. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có

3

nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tình trạng kháng kháng sinh nói chung và đặc
biệt là các nghiên cứu về vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1. Vấn đề
vi khuẩn kháng carbapenem là vấn đề rất mới nên hầu như chưa có những
nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam. Việc có những hiểu biết cơ bản và
chuyên sâu về vấn đề này bao gồm : dịch tễ học, lâm sàng, các yếu tố nguy cơ,
đặc điểm về vi sinh và sinh học phân tử của vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1 là hết sức cấp thiết và vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Những số liệu khoa học này sẽ giúp cho các nhà chuyên môn, các nhà quản lý
cũng như các nhà hoạch định chính sách y tế trong việc định hướng sử dụng
thuốc, phối hợp thuốc và nhất là đưa ra các giải pháp khống chế sự lây lan của vi
khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 trong bệnh viện và cộng đồng tại
Việt Nam. Chính vì sự cần thiết và ý nghĩa thực tiễn đã nêu ở trên chúng tôi tiến
hành đề tài nghiên cứu: “Một số đặc điểm dịch tễ học của nhiễm khuẩn bệnh
viện do vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 tại bệnh viện Việt
Đức-Hà Nội, 2010-2011” với 3 mục tiêu cụ thể sau.

1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện do
vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 phân lập tại bệnh viện Việt Đức-
Hà Nội.
2. Mô tả tình trạng ô nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 trong
một số mẫu môi trường bệnh viện Việt Đức.
3. Xác định một số đặc điểm sinh học phân tử của một số chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1. 4

Có biểu hiện viêm, nổi hạch hoặc có mủ chảy
ra từ vị trí đặt catheter
Nhiễm khuẩn huyết Sốt hoặc rét và kết quả cấy máu dương tính
với ít nhất một tác nhân gây bệnh
5

Hiện nay nhiễm khuẩn bệnh viện là một vấn đề nghiêm trọng tác động đến
sức khoẻ toàn cầu. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới về nhiễm khuẩn bệnh
viện từ năm 1995 đến 2010 cho thấy: Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện tính chung
cho các quốc gia có thu nhập cao nằm trong khoảng từ 5% đến 12% (hình 1.1)
và tỷ lệ chung cho tất cả các quốc gia này vào khoảng 7,6% [138]. Theo ước tính
của trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh châu Âu, hàng năm có khoảng
4.100.000 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn bệnh viện và khoảng 37.000 trường hợp tử
vong. Phần lớn các trường hợp là nhiễm khuẩn tiết niệu tiếp theo là nhiễm khuẩn
đường hô hấp, nhiễm khuẩn sau khi phẫu thuật, nhiễm khuẩn huyết và một số
nhiễm khuẩn khác (bao gồm tiêu chảy do Clostridium difficile). S. aureus kháng
đa kháng sinh cũng chiếm khoảng 5% các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện tại
liên minh châu Âu [40]. Tại Mỹ năm 2002, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện vào
khoảng 4,5% tương đương với khoảng 1,7 triệu bệnh nhân bị mắc nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn đường tiết niệu chiếm tỷ lệ cao nhất (36%) tiếp theo là nhiễm
khuẩn vết mổ (20%), nhiễm trùng huyết và viêm phổi (11%) [5;67]. Hình 1.1. Tỷ lệ phân bố nhiễm khuẩn bệnh viện ở các nước có thu nhập
cao *(nguồn WHO, 2011, Report on the Burden of Endemic Health Care-
Associated Infection Worldwide) [138].
Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện ở các quốc gia có thu nhập trung bình và

viện [137]. Hiện nay vi khuẩn là một trong những căn nguyên quan trọng
hàng đầu gây nhiễm khuẩn bệnh viện bao gồm như C. perfringen là nguyên
nhân gây bệnh hoại thư sinh hơi trong bệnh viện [137]. Vi khuẩn Gram dương

7

điển hình là S. aureus (sống ký sinh trên da và mũi) là nguyên nhân gây nhiều
loại nhiễm khuẩn trong bệnh viện như viêm phổi, xương, tim và nhiễm khuẩn
huyết [137]. Đặc biệt trong 10 năm vừa qua các vi khuẩn Gram âm như
Escherichia coli (E. coli), Klebsiella pneumoniae (K. pneumoniae),
Pseudomonas aeruginosa (P. aeruginosa) và Acinetobacter baumanii (A.
baumannii) là nguyên nhân quan trọng gây nhiễm khuẩn nặng trong các bệnh
viện như nhiễm khuẩn vết mổ, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, đặc biệt khi
các vi khuẩn này đã kháng lại các nhóm kháng sinh thế thệ mới đắt tiền được
sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn bệnh viện như cephalosporin và carbapenem
là kháng sinh mạnh nhất hiện nay gia tăng một cách nhanh chóng trên toàn
thế giới. Điều này đe doạ thực sự đến hiệu quả điều trị cho bệnh nhân tại các
bệnh viện trên toàn thế giới [8;42;70;103;140].

1.2. Kháng sinh và sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
Việc phát minh ra kháng sinh ở thế kỷ 20 đã đóng một vai trò quan trọng
trong việc khống chế các bệnh nhiễm trùng. Cùng với việc cải thiện điều kiện vệ
sinh, nhà ở, dinh dưỡng và chương trình tiêm chủng mở rộng đã góp phần quan
trọng làm giảm tỷ lệ tử vong của các bệnh nhiễm trùng và tuổi thọ của con người
đã được nâng cao. Cho đến nay nhiều thế hệ kháng sinh khác nhau đã được
nghiên cứu và chế tạo thành công đáp ứng kịp thời cho công tác điều trị. Tuy
nhiên hiện nay do sự gia tăng tỷ lệ các vi khuẩn kháng kháng sinh trong bệnh
viện và cộng đồng là một vấn đề quan trọng hàng đầu trên thế giới cần được
nghiên cứu và tìm ra các giải pháp phòng chống một cách hiệu quả.
1.2.1. Lịch sử phát triển kháng sinh

macrolides và carbapenem đã được nghiên cứu và sản xuất thành công, góp phần
to lớn cho công tác phòng và điều trị các bệnh nhiễm trùng.

9

1.2.2. Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
1.2.2.1. Sự phát triển đặc tính kháng kháng sinh của vi khuẩn
Trong tự nhiên phần lớn các vi khuẩn đều sở hữu riêng các gen kháng
kháng sinh. Điều này được quan sát thấy trên một số chủng Staphylococcus
đã đề kháng với penicillin ngay sau khi được đưa vào sử dụng năm 1946.
Dưới áp lực chọn lọc tự nhiên và sự đấu tranh sinh tồn đã giúp các loài vi
khuẩn có khả năng chống lại tác dụng của kháng sinh, do vậy sự đề kháng
kháng sinh của vi khuẩn thường xuất hiện rất nhanh ngay sau khi kháng sinh
được đưa vào sử dụng, ví dụ streptomycin được đưa vào sử dụng năm 1943
đến năm 1959 vi khuẩn đã lại kháng kháng sinh này (bảng 1.2). Tương tự các
chủng Shigella dysenteriae phân lập tại vụ dịch lỵ ở Nhật Bản năm 1953 đã
kháng đa kháng sinh bao gồm: chloramphenicol, tetracyclin, streptomycin và
sulfonamide. Hiện nay hầu hết các vi khuẩn gây bệnh đã kháng lại một hoặc
nhiều loại kháng sinh [127].
Bảng 1.2. Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn [127]
Kháng sinh Năm sử dụng
Năm phát hiện
đề kháng kháng sinh
Sulfonamid 1930 1940
Penicillin 1943 1946
Streptomycin 1943 1959
Chloramphenicol 1947 1959
Tetracyclin 1948 1953
Erythromycin 1952 1988
Vancomycin 1956 1988

hoặc không có đích tác động của kháng sinh như Mycoplasma thuộc loại vi
khuẩn không có vách sẽ không chịu tác động của kháng sinh tổng hợp vách,

11
như -lactam. Ở một số các vi khuẩn Gram âm, tế bào vi khuẩn được bao bọc
bởi một lớp vỏ bên ngoài sẽ ngăn không cho kháng sinh xâm nhập vào bên
trong tế bào [1].
+ Đề kháng thu được: Có rất nhiều cơ chế đã được vi khuẩn phát triển
để kháng lại kháng sinh. Các đề kháng thu được này liên quan đến sự thay đổi
nhiễm sắc thể của vi khuẩn đó hoặc do được truyền các gen kháng kháng sinh
nằm trên các plasmid và class I intergron cho vi khuẩn cùng và khác loài
thông qua hình thức biến nạp và tiếp hợp [1].
1.2.3. Cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn
Có rất nhiều cơ chế tham gia vào tình trạng kháng kháng sinh của vi
khuẩn. Những cơ chế này có thể thay đổi đích tác động, tạo ra các enzym,
ngăn cản khả năng gắn vào tế bào vi khuẩn và làm thay đổi đường chuyển hóa
(tạo ra các isoenzym).
1.2.3.1. Làm thay đổi đích tác động
Vi khuẩn thay đổi đích tác động của kháng sinh do đó kháng sinh
không còn vị trí để tác động, ví dụ: A. baumannii kháng lại imipenem và P.
aeruginosa kháng ticarcilline và imipenem do chúng thay đổi vị trí gắn vào
protein của các kháng sinh [97]. Cơ chế tác động của các kháng sinh nhóm
quinolone là ức chế hoạt động của đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym
GyrA (ADN gyrase subunit A) và ParC (topoisomerase IV) của tế bào vi
khuẩn. Ví dụ tính kháng quinolone của S. typhi xảy ra do đột biến điểm của các
đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym GyrA và ParC trên nhiễm sắc thể
của vi khuẩn [20;126].
1.2.3.2. Tạo ra các enzym
Enzym được tạo ra làm biến đổi hoặc phá hủy cấu trúc phân tử của
kháng sinh. Ví dụ với các enzym beta-lactamase có khả năng phá hủy

13
nhức đầu, bệnh cúm hay để phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình
dục và kháng sinh tiêm có tác dụng mạnh hơn thuốc viên [3;4].
Ngoài ra, các nhân viên bán thuốc do không được đào tạo đầy đủ và cập nhật
kiến thức thường xuyên về kháng sinh lại thường tư vấn cho khách hàng khi
mua thuốc kháng sinh, thậm chí còn khuyến khích mua kháng sinh khi họ
không bị ốm [39;51;53].
1.2.4.2. Sử dụng kháng sinh trong bệnh viện
Hiện nay phương thức sử dụng kháng sinh được chia làm 3 phác đồ điều
trị: (1) để phòng chống nhiễm khuẩn: kháng sinh thường được sử dụng trước,
trong hoặc sau khi phẫu thuật; (2) theo kinh nghiệm: sử dụng kháng sinh trước khi
biết căn nguyên nhiễm khuẩn; và (3) phương thức chọn lọc: sử dụng kháng sinh
khi biết căn nguyên gây nhiễm khuẩn. Các nghiên cứu cho thấy nếu các bệnh viện
thực hiện tốt công tác giám sát tình trạng sử dụng kháng sinh của phác đồ 1 và 2
sẽ làm giảm áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng lại kháng sinh trong các bệnh
viện. Ngoài ra, bệnh nhân điều trị dài ngày trong bệnh viện có sức đề kháng yếu,
thường sử dụng kháng sinh kéo dài và dễ bị nhiễm khuẩn chéo với các chủng vi
khuẩn kháng đa kháng sinh trong các bệnh viện.
Nhiễm khuẩn bệnh viện là yếu tố quan trọng liên quan đến tính kháng
kháng sinh của vi khuẩn trên thế giới. Việc phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện
gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Ví dụ
tại Việt Nam, phần lớn các bệnh viện có cơ sở hạ tầng cũ và tình trạng quá tải.
Công suất sử dụng giường vượt quá 100%. Hơn nữa người nhà bệnh nhân ở lại
viện để chăm sóc người bệnh dẫn đến tình trạng quá tải càng nghiêm trọng [49].
Ngay cả việc không tuân thủ các quy định thực hiện chống nhiễm khuẩn trong
bệnh viện, đơn giản như rửa tay và thay găng trước và sau khi thăm khám cho
bệnh nhân của các nhân viên y tế, đây là nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm khuẩn
tại hầu hết các bệnh viện trên thế giới và tạo điều kiện thuận lợi cho sự lây lan của

14

kháng sinh của vi khuẩn. Đối với thầy thuốc việc sử dụng kháng sinh theo kinh
nghiệm, liều cao, kéo dài và phần lớn không dựa vào các kết quả xét nghiệm xảy
ra phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. Thầy thuốc phải chịu áp lực khi kê đơn
thuốc theo yêu cầu của bệnh nhân ngay cả khi không có chỉ định điều trị bằng
kháng sinh. Ở một số quốc gia, nhiều người tin rằng sử dụng kháng sinh theo
đường tiêm có tác dụng tốt hơn so với đường uống, điều này đã dẫn đến tình trạng
gia tăng việc sử dụng các loại kháng sinh phổ rộng bằng đường tiêm trong khi chỉ
cần điều trị bằng đường uống với các kháng sinh thông thường [15;52;92;96].
1.2.4.5. Chất lượng kháng sinh kém
Khi bảo quản nhiệt độ >25
0
C sẽ giảm hoạt tính kháng sinh, kháng sinh quá
hạn sử dụng, hàm lượng thấp không những không thể tiêu diệt được hoàn toàn vi
khuẩn gây bệnh mà còn tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng lại kháng sinh
[45;95;122]. Ngoài ra một số kháng sinh được bán tại các nước đang phát triển
không chứa đủ hàm lượng như đã ghi trên nhãn thuốc, thành phần chủ yếu trong
các loại thuốc giả này thường là bột mỳ. Nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng
65% trong tổng số 751 hoạt chất đã được làm giả tại hơn 28 quốc gia trên thế giới
được ghi nhận [4;73;81].
1.2.4.6. Gia tăng sự đi lại quốc tế
Làm lây lan các chủng vi khuẩn kháng thuốc từ 1 quốc gia sang các quốc
gia khác trên thế giới qua đường hàng không. Ví dụ: vi khuẩn kháng carbapenem
mang gen NDM-1 tại Anh có nguồn gốc từ Ấn Độ [70].
1.2.4.7. Hệ thống giám sát kháng sinh
Tại các quốc gia phát triển đã xây dựng được hệ thống giám sát kháng sinh
như Mỹ và liên minh châu Âu chuẩn thức, qua hệ thống này các thông tin về mức

16
độ, xu hướng và phát hiện được các trường hợp kháng thuốc mới của vi khuẩn sẽ
được sử dụng để phân tích và đánh giá…qua đó sẽ giúp cho các thầy thuốc và các

Có hai kiểu đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh nhóm carbapenem: (1):
tạo ra serine tác động vào amino acide serine tại vị trí 70 hoạt động trong cấu
trúc phân tử của kháng sinh nhóm carbapenem (enzym nhóm A và D). (2): và
nhóm B, sinh các enzym metallo-beta-lactamase (MBLs), các enzym này hoạt
hóa khi có sự tham gia của các ion kim loại có hóa trị 2, thông thường là kẽm
[88]. Các enzym kháng carbapenem được chia ra làm 3 nhóm chính (bảng 1.3).

18
Bảng 1.3. Một số đặc tính của các enzym ly giải carbapenem của các chủng vi khuẩn Gram âm [88]
Nhóm
enzym
Enzym Plasmid/
Chromosome
Khả năng ly giải kháng sinh Enzym bị ức
chế
Penicillin Cephalosporin
thế hệ I
Cephalosporin
thế hệ II
Cephalosporin
thế hệ III
Aztreonam Carbapenem

A
SME-1,-2, -3
Chromosome ++ ++ - + + + Clavulanate,
Tazobactam,
sulbactam
NMC-A
Chromosome ++ ++ - + - ++

enzym này có khả năng ly giải nhiều loại kháng sinh nhóm beta-lactam bao gồm:
penicillin, cephalosporin, carbapenem và aztreonam và có thể bị ức chế bởi
clavulanic acid và tazobactam (bảng 1.3) [6;].
Enzym IMI và NmcA được mã hóa bởi các gen nằm trên nhiễm sắc thể của một
số chủng Enterobacter spp. phân lập tại Anh, Pháp và Agrentina [84;110;111]. IMI-
2 được mã hóa bởi gen IMI-2 nằm trên các plasmid của các chủng Enterobacter
asburiae phân lập được từ nước sông tại Mỹ. Enzym SME được mã hóa bởi các
gen nằm trên nhiễm sắc thể của các chủng Serratia marcescens phân lập tại Mỹ và
được chia thành 3 loại (SME-1, SME-2 và SME-3) [46;84;109].
Enzym nhóm GES được phát hiện lần đầu năm 2000 được mã hóa bởi các gen
nằm trên plasmid và có khả năng ly giải các kháng sinh phổ rộng cephalosporin, tuy
nhiên một vài enzym thuộc nhóm này (GES-4,-5 và -6) được xác định có khả năng
ly giải các kháng sinh nhóm carbapenem [69].
KPC là enzym có tác động quan trọng nhất trên lâm sàng trong các enzym
thuộc nhóm A do KPC gây ra tình trạng kháng đa kháng sinh. KPC lần đầu tiên được
phát hiện trên chủng K. pneumoniae phân lập ở miền Nam nước Mỹ năm 1996 [141].
Sau đó các trường hợp nhiễm khuẩn bởi các chủng K. pneumoniae kháng
carbapenem được phân lập rải rác tại Mỹ trong thập kỷ 1990 [17;76]. Cho đến những
năm 2000, tỷ lệ phân lập các chủng K. pneumoniae kháng carbapenem trên bệnh
phẩm lâm sàng tại Mỹ gia tăng một cách nhanh chóng, nghiên cứu tại Brooklyn-New
York cho thấy khoảng 1/3 số chủng K. pneumoniae phân lập năm 2004 mang gen
KPC mã hóa enzym KPC ly giải carbapenem [18;19;37]. Năm 2009 tại hầu hết các

20
quốc gia châu Âu có tỷ lệ kháng carbapenem của các chủng K. pneumoniae phân lập
từ máu và dịch não tủy <1%; tuy nhiên ở Hy lạp, Đảo Cyprus và Ý tỷ lệ kháng cao
hơn lần lượt là 43,5%, 17% và 1,3% [41;114;125]. Hiện nay các trường hợp nhiễm
khuẩn bệnh viện do vi khuẩn mang gen KPC được ghi nhận ở nhiều quốc gia trên thế
giới như: ở châu Âu, Nam Mỹ, Israel và Trung Quốc [86;90;91].
1.4.2. Kháng carbapenem do enzym nhóm B (metallo-beta-lactamases)

Thổ Nhĩ Kỳ năm 2003 [105], sau đó nhiều trường hợp nhiễm khuẩn do vi khuẩn
mang gen OXA-48 được phát hiện tại nhiều quốc gia ở châu Âu như Pháp, Đức, Hà
Lan [89]. Ngoài ra OXA-181 là một dạng đột biến của OXA-48 có khả năng ly giải
carbapenem đã được phát hiện ở Ấn Độ [89]. Gen mã hóa OXA-48/OXA-181
thường nằm trên các plasmid có kích thước khoảng 62,5-70 kb, và có khả năng ly
giải carbapenem ở mức độ yếu, và không bị ly giải bởi EDTA và clavulanic acid.
Cho đến nay OXA-48 chỉ phát hiện được trên các chủng K. pneumoniae và E. coli,
và mức độ kháng carbapenem cao hơn khi có mặt của các gen kháng kháng sinh
phổ rộng khác [89].
Ngoài OXA-48 và OXA-181, một số OXA quan trọng khác có khả năng ly giải
carbapenem như OXA-23 được phát hiện trên các chủng A. baumannii tại nhiều
quốc gia trên thế giới [38]. OXA-51 nằm trên nhiễm sắc thể của A. baumannii phân
bố trên toàn cầu và OXA-51 [61]. Hay OXA-58 kháng carbapenem cũng được phát
hiện trên các chủng Acinetobacter ở nhiều nơi trên thế giới [79;98].
Nhìn chung vi khuẩn gram âm kháng carbapenem trong các bệnh viện rất đa
dạng, do rất nhiều các cơ chế kháng khác nhau. Hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều ghi nhận sự có mặt của các chủng vi khuẩn gram âm kháng carbapenem. Tuy
nhiên không thống kê được tỷ lệ mắc bệnh do các vi khuẩn kháng carbapenem do

22
phần lớn các quốc gia đều không có các báo cáo đầy đủ về mức độ nhạy cảm kháng
sinh của vi khuẩn. Điều này cho thấy sự lây lan và gia tăng một cách nhanh chóng
các vi khuẩn kháng carbapenem trong giai đoạn hiện nay thực sự là mối đe dọa đến
công tác điều trị và cần phải nghiên cứu để đưa ra các giải pháp và các phác đồ điều
trị nhằm hạn chế sự gia tăng, lây lan và các loại vi khuẩn này một cách hiệu quả.
1.5.Tình hình kháng carbapenem tại Việt Nam
Imipenem là kháng sinh thuộc nhóm carbapenem được đưa vào Việt Nam
những năm 2000, đã giảm nhạy cảm với các vi khuẩn gram âm, là căn nguyên
chính gây nhiễm khuẩn bệnh viện ở Việt Nam. Hai căn nguyên gây nhiễm khuẩn
bệnh viện thường gặp là P. aeruginosa và A. baumannii được đánh giá ở 6 bệnh

Tình trạng vi khuẩn kháng kháng sinh ngày một gia tăng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe và kinh tế của người dân ở những quốc gia này. Khi bệnh nhân bị
nhiễm các chủng vi khuẩn kháng thuốc sẽ rất khó khăn cho công tác điều trị, kéo dài
thời gian mắc bệnh, nguy cơ tử vong cao [112]. Thông thường, khi vi khuẩn kháng
kháng sinh phải thay thế kháng sinh thế hệ mới có giá thành cao hơn. Tại các quốc
gia phát triển như liên minh châu Âu, tỷ lệ tử vong hàng năm do bị nhiễm các chủng
vi khuẩn kháng thuốc là 25.000 ca và tại Mỹ là hơn 63.000 ca, hậu quả đã gây thiệt
hại cho nền kinh tế bao gồm chi phí điều trị và tạo ra ít sản phẩm lao động. Mỗi năm
tại châu Âu là 1,5 tỉ EUR và Mỹ là 1,87 tỉ đô la, hơn rất nhiều chi phí hàng năm cho
công tác phòng chống bệnh cúm [43].
1.7. Các kỹ thuật phát hiện vi khuẩn kháng carbapenem
1.7.1. Kỹ thuật thử nghiệm tính nhạy cảm kháng sinh
1.7.1.1. Kỹ thuật khoanh giấy kháng sinh khuếch tán trên thạch
Nguyên lý: kháng sinh trong khoanh giấy sẽ khuếch tán vào thạch Mueller-
hinton đã cấy các chủng vi khuẩn thử nghiệm. Mức độ nhạy cảm của vi khuẩn

24
với kháng sinh được biểu hiện bằng đường kính các vòng vô khuẩn xung quanh
khoanh giấy kháng sinh [32]. Tuy nhiên kỹ thuật là chỉ phát hiện được mức độ
nhạy cảm nồng độ kháng sinh đã biết trước, nhưng đây là kỹ thuật đơn giản và
giá thành rẻ nên hiện vẫn được sử dụng phổ biến tại các quốc gia đang phát triển
để điều trị và giám sát dịch tễ học.
1.7.1.2. Kỹ thuật xác định nồng độ tối thiểu của kháng sinh (MIC)
Nguyên lý: Các chủng vi khuẩn thử nghiệm được nuôi cấy trên các đĩa thạch
Mueller-hinton hoặc canh thang có chứa nồng độ kháng sinh khác nhau. Nồng độ
kháng sinh tối thiểu có tác dụng ức chế vi khuẩn được xác định khi mật độ khuẩn
lạc  3. Đây là kỹ thuật chuẩn thức được áp dụng nhằm xác định nồng độ kháng
sinh nhỏ nhất ức chế sự phát triển của vi khuẩn, kết quả giúp các bác sỹ lựa chọn và
tính toán liều kháng sinh cho bệnh nhân [32]. Tuy nhiên kỹ thuật này có giá thành
cao, phức tạp, đầy đủ trang thiết bị và cán bộ có kinh nghiệm để thực hiện.

Doripenem ND ND ND

1
2

4
Ertapenem

2
4

8

0.25
0.5

1
Imipenem

4
8

16

1
2

4
Meropenem


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status