Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Lên men, sấy và đánh giá chất lượng hạt ca cao ở Việt Nam - MS2 " pot - Pdf 15



Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Báo cáo tiến độ 013/05VIE
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng hạt ca cao
ở Việt Nam MS2: Báo cáo 6 tháng lần thứ nhất
Tháng 8 năm 2006
1
1. Thông tin cơ quan

Tên:
Neil Hollywood
Telephone:
617 34068643
Chức
vụ:
Nhà vi sinh vật học
Fax:
617 34068699
Tổ chức
QDPI&F
Email:
Phía Úc: liên hệ hành chính
Tên:
Michelle Robbins
Telephone:
617 33462711
Chức
vụ:
Nhân viên kế hoạch
Fax:
617 33462727
Tổ chức
QDPI&F
Email:
Chính phủ Việt Nam đang tập trung vào chất lượng cao của hạt ca cao Việt Nam và đề ra
mục đích sẽ có 10.000 hecta trồng ca cao đến 2010, với trọng tâm là ở tỉnh Đắc lắc và với
18.000 ha ở Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi là vùng ưu tiên cho dự án CARD. Các hộ nông
dân sản xuất nhỏ sẽ canh tác hầu hết ở vùng này và thấy rằng giá trị cao của ca cao được
thấy rỏ ca cao có thể dẫn dắt sự phát tri
ển nông thôn. Tuy nhiên, có ý kiến rằng Việt Nam
sản xuất cacao được lên men chất lượng cao với giá cao chênh lệch, điều đó sẽ tăng thêm
thu nhập cho người nông dân trồng cacao Việt Nam. Phương thức tốt nhất để đảm bảo
thuộc tính chất lượng tốt là huấn luyện những chuyên gia Việt Nam về phương pháp đánh
giá các thuộc tính chất lượng cacao, các phương pháp lên men và sấy khô. Những nhà khoa
học của nhóm phát triển ca cao Việt Nam s
ẽ được chọn để huấn luyện bao gồm các nhà
khoa học của Đại học Nông lâm, Đại học Cần Thơ (nằm tại một trong những vùng trồng
cacao rộng lớn nhất Đồng bằng Sông Cửu Long),và WASI (Viện nghiên cứu ca cao của
chính phủ, đặt tại tỉnh Đắc lắc). Trong dự án, phương pháp lên men và sấy mặt trời cacao
phạm vi hộ gia đình, đã được phát triển ở các nước khác, sẽ
được kiểm chứng và điều chỉnh
trong điều kiện Việt Nam và sự chấp nhận làm theo các mặt thực tiễn của người dân. Những
phương pháp này sẽ được chuyển giao cho các hộ nông dân và các hệ thống khác. Kế tiếp
sau đó, đội ngũ cán bộ được tập huấn phân tích hóa học và cảm quan cacao dưới sự chỉ đạo
của QDPI&F. Điều này sẽ đáp ứng mục

3Các mục đích khác nhau đã đạt được như sau:

Tỉnh Cần Thơ và trường Đại Học Cần Thơ

Tỉnh cần thơ hiện tại không phải là tỉnh có sản lượng ca cao lớn và Success Allience không có hoạt
động tại đây. Chỉ có một nông hộ trồng chính tại thành Phố Cần Thơ. Nông hộ này nằm trong vùng
sản xuất mà đã có các nông hộ khác sản xuất nhưng do sản xuất nhỏ (30-40 cây) nên chỉ bán trái
thay vì tự họ lên men và sấy.

Phương pháp trồng thì giống như ở Bến Tre nhưng không có sự hổ trợ c
ủa các tổ chức như DOST
và SUCCESS Alliance. Các nông hộ gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm và ca cao phải chở
đi Bến Tre để bán. Tổng thể phương pháp lên men và sấy hạt ca cao của nông hộ tại đay là có chát
lượng cao và mức độ về phát kiến. Họ chỉ cần một số thay đổi nhỏ để đạt được tiêu chuẩn tây phi.
Khó khăn chính của họ là vấn đề sấy hạt ca cao vào mùa mưa.

Tr
ường Đại học Cần Thơ được đánh giá là có đủ phương tiện và thiết bị phòng thí nghiệm để tiến
hành các thí nghiệm của quá trình lên men và sấy. Tuy nhiên, trong vùng không có đủ hạt ca cao do
đó phải mua từ Bến Tre để tiến hành các thí nghiệm đầu tiên. Do thiếu nguồn nguyên liệu ở Cần thơ
và trường Đại học Cần thơ không có khu trồng ca cao riêng nên CTU không là nơi tốt nhất để tiến
hành các thí nghiệm lên men và sấy. với nhu cầu thu mua ca cao t
ại Bến Tre và thiếu nông hộ sản
xuất ca cao trong vùng, nhu cầu cần thử nghiệm sấy và lên men và thùng lên men và làm máy sấy,
mốc làm việc thứ hay không thể hoàn tất về khảo sát các hoạt động của nông dân. Điều này đã được
tiến hành trong chuyến đến Cần Thơ lần thứ 2 vào tháng 8.
Trường Đại học Nông Lâm


4
Các biẻu đồ về việc trồng và dự án trồng cũng được cung cấp bởi SUCCESS alliance trong tài liệu
đính kèm. Các báo cáo khảo sát của SUCCESS alliance về nông hộ tham gia từ năm 2005 cũng
được vung cấp và trích ra trong tài liệu đính kèm.

Các cơ sở thu mua chính cao cao là Cargill, ED&F Mann và Masterfoods. Các thông tin
liên quan thị trường thì không được chia sẽ. Các thông tin từ Cargill Gerkinss và Success
Alliance được ghi nhận trong tập tài liệu riêng.
3. Khảo sát tình hình hoạt động ca cao ở các nông hộ:

Công việc này được khảo sát ở cả Bến Tre và Cần Thơ ở tại các nhà nông dân hay các trạm
thu mua. Cần Thơ chỉ có một nông hộ lên men và sấy hạt ca cao. Do đó, cuộc khảo sát hầu
như tiến hành tại Bến Tre. Cuộc khảo sát đã được tiế
n hành vào tháng 8 và kết quả ghi nhận
trong tài liệu riêng.

4. Đánh giá giá cả và nguyên vật liệu cho thùng lên men và máy sấy năng lượng mặt
trời.

Xây dựng các thùng lên men và máy sấy đầu tiên được tiến hành tại trường Đại học Cần thơ. Một
xưởng đóng gỗ đã hợp tác làm các thùng lên men. Bốn cái của bốn kích cỡ thùng đã được làm là
100 kg, 50 kg, 25 kg và 10 kg hạt ước đã được làm. Tổng giá các thùng là 500 USD. Giá này được
xem là quá đắt đối với nông dân. Giá gia công là rất lớn. Điều này có thể được giải quyết là các
nông dân sẽ tự đóng các thùng lên men này. Và vì thể sẽ giảm được giá thành của các thùng lên
men. 50 mm dầy của thùng được đóng thùng cho mục đích ngăn trao đổi nhiệt. Độ dày có thể giảm
đi và vì vậy cũng giảm được giá. Một set thùng lên men được đặt tại Cần Thơ và một set thùng
được đưa xuống cá cơ sở lân cận. Trong chuyến đi 2 set thùng cũng được đưa đi Bến tre và một set
được đưa xuống ông Vinh ở Cần thơ.


5

Ngày tập huấn về đánh giá cảm quan ca cao đã được tiến hành tại Úc. Chủ nhiệm dự án Phía Úc đã
thu xếp ngày tập huấn sau khi trở về từ Việt Nam. Các mẫu được sử dụng là các mẫu lên men và
sấy tại Trường Đại Học Cần thơ và cá mẫu thu thập từ các nông hộ ở Cần Thơ và Bến Tre. Đợt tập
huấn diễn ra vào tháng 8 tại QDPI&F.

7. Lên kế hoạch mua trang thi
ết bị và dụng cụ tại Úc:

Các vật liệu và dụng cụ đã được hoàn tất trong chuyến đi. Hầu hết các dụng cụ đều được mua từ Úc
hoặc vận chuyển từ Úc. Chúng bao gồm data logger, cối và chày motơ cho WASI và đầu đo độ ẫm
khí. Các vật dụng khác có ở Việt Nam.

8. Tham gia các thí nghiệm lên men và sấy
Các thí nghiệm đầu tiên đã được tiến hành trong chuyến đi lần 1. 4 dạng kích c
ở thùng lên men
và lên men ngoài đã được làm. Kếta quả nhận được của máy sấy hoạt động tốt ở 60
o
C trong vài
giờ của ngày. Thời gian sấy mất là 4-5 ngày. điều này thấy tốt hơn so với thời gian sấy của nông
dân là 10-12 ngày. Kết quả này được đệ trình nếu có yêu cầu.

Yếu tố ngân sách

Với ngân sách dự kiến, một số yếu tố ngược lại đã xảy ra. Đầu tiên là các tấm
polycarbonate bị giữ ở hải quan 3 tuần với chi trả là 1.000 USD. Lý do chính bị giữ lại là
cho vật liệu được gửi trực tiếp từ Israel và khó khăn xảy ra liên quan đến hoá đơn gốc bị
yêu cầu ở hải quan. Do đó phải lấy tiền từ làm thùng lên men và máy sấy cho việ
c chi trả.


6
được ghi nhận: chất lượng hạt, vấn đề bảo trì, phân phối lao động và cả thu nhập. Các công
việc này phải được tiến hành ít nhất 1 năm để đánh giá một cách tương đối các vấn đề có
thể phát sinh và trong các mùa vụ khác nhau.
Với việc thử nghiệm thành công trên vườn, các hoạt động mở rộng sẽ được nối tiếp. Đây có thể là
các quyển sổ hướng dẫn, mô hình đơn giản của thùng lên men và máy sấy, phóng sự trên các thông
tin địa phương và phân bố rộng hơn phạm vi hoạt động thông qua cơ quan chức năng và các chương
trình tập huấn như SA.
Đối với việc đánh giá chất lượng, các nhân sự từ 3 vùng sẽ cùng nhau tham gia tậ
p huấn đánh giá
cảm quan, hoá và lý học. Họ cũng sẽ được tập huấn về lên man và sấy hạt ca cao.
5. Sự tiến triển hiện tại
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật
Các mục tiêu của đề án trong 6 tháng đầu và kết quả đạt được phản ánh hợp đồng và Khung
Logarít Hoạt động của dự án như sau:
Hợp đồng và hoạt động 1: Trạng trái kí kết hợp đồng: Hoàn tất.
Hoạt động 2.1 trong Khung Logarít của đề tài: Chủ trì đề tài phía Úc đến Việt Nam
khởi đầu các hoạt động 2.2-2.6 trong khung Logarít. Chuyến làm việc đầu tiên vào tháng
4, 2006.
Hoạt động 2.2 trong Khung Logarít của đề tài: Việc thu thậ
p dữ liệu cơ bản của nền
công nghiệp hiện tại và công suất của Viện – Hoạt động này cho thấy khó đạt được đặc
biệt là trong các hộ nông sản xuất nhỏ. Điều này không nhận ra trước chuyến làm việc tại
một khu công nghiệp sản xuất cacao ở Cần Thơ, nơi có cơ quan dẫn đầu phía Việt Nam,
là không tồn tại thực tiễn. Toàn tỉnh có khoảng 12 h
ộ dân có lượng cây cho năng suất thấp
và không bón phân cũng như sấy khô hạt vì không đủ số lượng hạt để đầu tư những công
việc như trên. Duy nhất một hộ nông ở Cần Thơ trồng và thu hoạch đủ lượng hạt cho việc
lên men và mua vỏ từ các hộ nông khác. Thông tin vạch ranh giới về giá của vỏ trái cacao

Công nghệ tỉnh Bến Tre là nơi được lựa chọn từ SA. Hoạt động này hoàn tất trong điều
kiện thời gian gấp rút nhưng theo đúng thiết kế của WASI. Các nhà cung cấp sức nóng
kiểm soát sự lên men trong điều kiện thời tiết lạnh của vùng Tây Nguyên nên chỉ được
thiết k
ế tại vùng này. Một lò sấy bằng năng lượng mặt trời lớn và một cái nhỏ hơn phù
hợp với hộ nông nhỏ được thiết kế tại CTU. Lò sấy to hơn tại CTU thiết kế cho việc lên
men các mẫu hạt được xử lí ở nhiều điều kiện khác nhau.
Hoạt động 2.6 trong Khung Logarít của đề tài: Việc tiến hành thử nghiệm sấy được
kiểm soát khi liên kết v
ới việc lên men và sấy từ 4-5 ngày (kết quả này được so sánh với
phương pháp của hộ nông kéo dài 10-12 ngày).
Hoạt động 2.7 trong Khung Logarít của đề tài: Tiến hành thử nghiệm lên men: được
kiểm sóat tại CTU nhưng gặp phải một số vấn đề. Đầu tiên, vỏ trái không thu đủ lượng tại
Cần Thơ vì thế phải tốn thời gian, tiền bạc để thu mua ở Bến Tre. Thứ hai, khi đập vỡ vỏ
thu hạt thì hạt thường có chứa vi sinh vật do một loại ruồi đặc trưng cho cây cacao gây ra.
Trong suốt quá trình đập vỏ thu hạt tại Cần Thơ, không phải lúc nào hạt cũng bị nhiễm vi
sinh nhưng 5 thử nghiệm xử lí lên men khác nhau cho kết quả không chính xác. Ngay cả
khi vỏ trái được mua cũng không đa dạng về thời hạn trữ hơn là độ tươi. Ở các thử
nghiệm sắp tới, trong thử nghiệm tr
ữ vỏ trái để hạt còn tươi sẽ không tiến hành tại CTU.
Các thử nghiệm kiểm soát điều kiện lên men sẽ được tiến hành tại WASI vì có nguồn
cacao được trồng tại đó. Điều này có thể được đề nghị của người viết đề tài. Hoạt động
này sẽ tiến hành vào đợt làm việc thứ ba của các chuyên gia Úc, trùng vào thời điểm thu
hoạch cao độ. Nơi tiến hành hoạ
t động này là tại NLU mặc dù họ không có đủ khả năng
như WASI.
Hoạt động 2.8 trong Khung Logarít của đề tài: Thu thập mẫu cacao từ nguồn địa
phương và thử nghiệm lên men để kết luận việc tập huấn tại QDPI&F. Kết quả rất tốt với
các mẫu thu tại Cần Thơ, Bến Tre, WASI và một điểm lên men tại CTU và chế biến thành
dạng lỏng tại NLU.Collection of samples of cocoa from local sources and fermentation

Các thay đổi này nhằm tối ưu việc sử dụng nguồn nguyên liệu và vì thế giảm giá thành
cho một lò sấy đã được thiết kế và trình bày trong phần đính kèm.
5.2 Lợi ích cho các hộ nông
Cacao có thể lên men hoặc sấy khô để có hương vị tốt hơn có giá trung bình từ 100-200
USD/tấn. trên thị trường Đông Nam Á. Điều này có ý nghĩa rằng nếu dự án thành công khi
thiết lập một chuẩn về chất lượng cao thì các hộ nông Việt Nam có thể thu nhập thêm từ 1-2
triệu USD/năm cho 10.000 ha vào năm 2010. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long thì hộ nông
trồng cacao có khả năng thu nhập từ 1.8-3.6 triệu USD. Hiện tại, ch
ỉ có một số ít lượng cacao
được trồng tại vùng duyên hải miền Trung nhưng cũng không có chương trình phát triển
cacao nào cho vùng này. Vì thế dự án này chỉ tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long. Dựa
theo lượng mưa tương đương, việc phát triển các phương pháp học cho đồng bằng sông Cửu
Long nên chuyển giao cho vùng duyên hải miền Trung nếu việc sản xuất cacao được tiến
hành tại đây.
Một tổng kết ngắn g
ần đây về các hộ nông trồng cacao ở Bến Tre cho thấy cây cacao 2 năm
tuổi có thể cho 50 kg hạt/ tháng/ ha. Ở cây trồng 4 năm tuổi, sản lượng tăng đến 200 kg hạt/
tháng/ ha. Với giá hiện tại là 18.000 VNĐ/ kg cho hạt đã lên men, nông dân có thể thu nhập
3.6 tỉ VNĐ/ tháng/ ha (hay 235 USD/ tháng/ ha). Hạt cacao nên lên men và phơi khô để giữ
giá.
5.3 Khả năng xây dựng
Các cơ quan tham gia phía Việt Nam sẽ được tập huấn trên các thí nghiệm về lên men và
sấy, lên quan đến cá thí nghiệm vật lý, hoá học hạt ca cao lên men, hạt trong quá trình sấy
và sản phẩm sấy. Việc đánh giá hạt cacao cuối quá trình sấy đòi hỏi các đánh giá cảm quan
tốt. Để thực hiện chính xác điều đó cần có trang thiết bị liên quan và tập huấn cán bộ kỹ
thuật. Đội ngũ cán bộ tập huấn v
ề đánh giá cảm quan và các sử dụng thiết bị cho các thí
nghiệm phân tích được kiểm soát. Cơ quan hợp tác phía Úc có thể cung cấp các khóa tập
huấn và các điều kiện cần thiết sau:
1. Tập huấn công tác lên men và sấy hạt ca cao và xác định các thông số. Sau đó, chúng sẽ

ệc sản xuất các nguyên liệu phụ thêm và báo cáo tiến trình dự án đồng thời quản
lí kinh phí dự án.

6. Báo cáo các phát sinh chồng chéo
6.1 Môi trường
Việc trồng cacao có thể có ít tác động phức tạp lên môi trường hơn các hình thức canh tác
khác. Các dãy sản xuất thường nhỏ, thường là cacao được trồng xen với dừa hay một số nông
sản khác. Các báo cáo nghiên cứu, gồm việc giới thiệu tại một hội nghị ICCO (Brazin, 1996)
cho thấy sự đa dạng loài như động vật, chim, côn trùng v.v ở các dãy trồng cacao cũng
tương tự như các rừng nhiệt đới ở các vùng trồng cacao.

Việc giới thiệu áp dụng lò sấy bằng năng lượng mặt trời vào công nghiệp cacao ở Việt Nam
cũng là một tác động tích cực lên môi trường ở mức hộ nông. Nhiều nước dùng lò sấy đốt gỗ
để cung cấp nhiệt, trung bình khoảng 0.75 tấn gỗ đốt cho mỗi tấn cacao sấy khô. Gỗ đốt ở các
vùng ô nhiễm cao có thể là một vấn đề ảnh hưởng đến sinh hoạt củ
a dân cư.
Mối nguy hại đến môi trường khi tiến hành dự án này là rất ít. Dự án gồm tiến trình trồng
cacao hiện tại và tương lai. Việc trồng cacao tương lai có thể tác động lên quần thể động vật
và thực vật nhưng chương trình không mở rộng diện tích trồng cacao. Cacao cũng được xem
là một loại hoa màu ôn hòa. Ở đồng bằng sông Cửu Long, cacao được trồng với các hệ hoa
màu khác, thường là dừa hoặc trong mộ
t hệ thống rất đa dạng có thể đến 15 loại cây trồng
khác nhau như cây cho quả, hạt, cây bụi, dây leo và cây thuốc tạo nên sự đa dạng sinh học
cao.

6.2 Vấn đề giới tính và xã hội
Nhiều hộ nông trồng cacao ở Việt Nam vừa hoàn tất việc lên men và sấy cacao do
chính các hộ này thu hoạch và vì thế có nhiều kinh nghiệm trong các công đoạn này.
Trong suốt thử nghiệm tối ưu hóa kỹ thuật lên men, một nỗ lực để kết hợp chặt chẽ
nhằm thu được kết quả tốt nhất khi tiến hành các phương pháp do chúng tôi đề nghị.

Hầu hết việc đánh giá nguy cơ được hoàn tất trong chuyến làm việc của đối tác Úc
trong chuyến áp dụng cuối năm. Các yếu tố được xác định như sau:

1. Một là các lò sấy dùng năng lượng mặt trời không phù hợp cho các hộ nông nhỏ vì
giá thành cao và phức tạp. Tuy nhiên có thể thiết kế một dạng lò sấy nhỏ hơn phù hợp
với các hộ nông nhỏ. Các đề nghị cho thấy các bảng sấy làm bằng tre, trên đó trải một
lớp mỏng hạt cacao đã lên men và đem phơi nắng là một hệ thống sấy tốt phù hợp với
các hộ nông. Các hộ nông hi
ện nay sấy cacao bằng nhiều cách như phơi trên mặt đất,
trên tre, nền xi măng và ác bề mặt khác có thể nhiễm nấm khi trời ẩm ướt. Lò sấy
bằng năng lượng mặt trời vẫn được xem là thực thi do các chuyên gia Úc giới thiệu
cho các nơi lên men cacao qui mô nhỏ và vừa được thiết kế ở nhiều vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Các lò sấy này cũng phải phù hợp để sấy cacao trong suốt mùa mưa.
Trong th
ời gian thu hoạch cao điểm thường các hộ riêng lẻ có ít cacao để lên men và
sấy hơn, do đó một sự phối hợp có lẽ tốt hơn khi bán hạt cacao ướt và chưa lên men
cho các cơ sở lên men. 2. Hai là giá thành các lò sấy không được cao hơn 10.000 USD là mức mà các hộ
nông chấp nhận. Các thử nghiệm thiết lập lò sấy ở Cần Thơ cho thấy nguyên liệu địa
phương và giá nhân công cao hơn mức cho phép. Các phương pháp làm giảm giá
thành được vạch ra trong suốt thời gian các chuyên gia về lò sấy đến làm việc tại đây.
Hiện tại, các lò sấy nhỏ đặt tại các hộ nông có giá thành cao hơn giá cho phép là 200
USD.

3. Ba là các hộ nông nhỏ phải sẵn sàng hợp tác việc sấ
y cacao. Một ví dụ về việc này
là đặt một lò sấy tại một nơi trung tâm mà mộ số hộ nông có thể chia xẻ và sử dụng lò
sấy. Gỗ dừa, sẵn có và giá rẻ, có thể dùng để thiết kế lò sấy. Gỗ dừa có thể sử dụng

sấy và lên men cần thiết khi thiết kế lò sấy bằng năng lượng mặt trời loại lớn
cho các mẫu đã lên men thử nghiệm. Thứ tư, gỗ để thiết kế thùng lên men vượt xa chi
phí dự tính. Các yếu tố này làm vượt chi phí đã dự tính cho việc thiết kế lò sấy, nhà
cung cấp nhiệt và thùng lên men. Tổng chi phí cho việc thiết kế này khi tiến hành thí
nghiệm và ngoài đồng đã vượt mức cho phép là 6000 USD. Việc vượt m
ức chi phí
cho phép của chương trình và những chi phí phát sinh khi thiết kế lò sấy và nhà cung
cấp nhiệt ở WASI hay lò sấy, nhà cung cấp nhiệt và thùng lên men cho các thí điểm
hộ nông dân. Vì thế có sự điều chỉnh chi phí cho việc mua nguyên liệu cần thiết khi
vận hành lò sấy được thiết kế lại. Vấn đề này sẽ được đề cập s at WASI and for
dryers, hot houses and fermentation boxes at smallholder sites. The cost situation has
been rectified to some extent by the work of the project engineer in minimizing the
materials required in his updated design for dryers. However, it’s estimated an amount
of approximately $6,0000 will have to be found to completed construction at WASI
and smallholder sites. This issue will be mentioned/addressed trong một phần yêu cầu
bổ sung hợp đồng.
M
ột điều không nhận thức ngay từ đầu là lượng cacao thu hoạch tại Cần Thơ rất thấp.
Vì thế việc thăm dò về nông dân (giai đoạn 2 trong hợp đồng) bị trì hoãn đến khi
chuyên gia Úc sang làm việc vào tháng 8. Bảng thăm dò này đã được thực hiện ở Bến
Tre và các tỉnh, quận lân cận để tiến hành giải ngân nằm trong chi phí giai đoạn 2.
Việc thiếu hụt cacao ở Cần Thơ cho thấ
y phải thu mua trái cacao ở Bến Tre làm phát
sinh phí nhiên liệu và chậm trễ thử nghiệm. Trái cacao mua tại Bến Tre được thu
hoạch từ nhiều vụ mùa khác nhau và được trữ lại. Điều này cho thấy các thử nghiệm
trữ trái cacao là một khâu quan trọng đối với nông dân đã không được đánh giá, kiểm
soát ở Cần Thơ. Một yếu tố quan trọng khác khi trái bị đập ra để thu hạt tại Cần Thơ
thì không có một loạ
i ruồi chỉ có ở khu trồng nhiều cacao để kí sinh với cây cacao và
lên men hạt. Khi kiểm soát 5 thí nghiệm lên men ở các điều kiện xử lí khác nhau, có 4

các thí điểm.
• Việc ch
ọn WASI để tiếp tục thử nghiệm lên men, trữ trái và sấy khô.
• Đề nghị tăng thời gian làm việc của chuyên gia Úc tại Việt Nam.
Tất cả yếu tố này xuất phát từ quan sát thực tế và đều được đề cập trong bảng hợp
đồng điều chỉnh.

7.3 Khả năng duy trì
Các thử nghiệm được kiểm soát tại Cần Thơ cộng thêm việc tập huấn cán bộ
của ĐH
Cần Thơ, Nông Lâm và WASI có khả năng duy trì cao.
8. Các bước chính tiếp theo
Các bước chính tiếp theo là mỗi một mục nhỏ trong bảng liệt kê hoạt động của đề tài:

Hoạt động 6.1 trong Khung Logarít của đề tài: Tập huấn kỹ thuật cán bộ của WASI về
đánh giá cảm quan và phân tích tại ĐH Cần Thơ và ĐH Nông Lâm.

Họat động này không nhất thiết phải tiến hành tiếp. Cán bộ được đề cử của ĐH Nông
Lâm đang ở Brisbane nên tiền vé máy bay sẽ dùng cho một cán bộ khác của WASI
đến QDPI&F tập huấn. Chi phí cho hoạt động này được đề cập trong Bảng hợp đồng
điều chỉnh.

Hoạt động 2.7 trong Khung Logarít của đề tài: Tiến hành các thử nghiệm lên men. Các
thí nghiệm lên men tại Cần Thơ không điển hình. Tuy nhiên, có một vấn đề là khi phá

13
vở trái ca cao mà chúng ta có thể giải quyết bằng phá vở tại vườn.Các thí nghiệm về
tồn trữ và nhà kính tăng nhiệt độ cần được thực hiện tại WASI. Công việc này sẽ
được tiến hành vào tháng 12, khi các chuyên gia Úc sang.
Hoạt động 7.1 trong Khung Logarít của đề tài: Việc nâng cao chất lượng cacao của các

14


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status