LUẬN VĂN: Phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn hiện nay doc - Pdf 15



LUẬN VĂN:

Phát triển đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình
trong giai đoạn hiện nay mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vấn đề dân tộc
và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Một trong những
nội dung quan trọng để giải quyết tốt vấn đề dân tộc là phải xây dựng cho được ĐNCB
người DTTS có phẩm chất và năng lực. Với đường lối đúng đắn đó, trong những năm
qua, Đảng ta chăm lo xây dựng ĐNCB, nhất là ĐNCB người DTTS cho vùng đồng bào
dân tộc. Bởi vậy, ĐNCB người DTTS đã dần phát triển cả về số lượng và chất lượng, có
nhiều đồng chí cán bộ người DTTS được giao những trách nhiệm quan trọng từ Trung
ương đến địa phương, góp phần to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói
chung, vùng dân tộc và miền núi nói riêng.
Tuy nhiên, công tác xây dựng ĐNCB ở vùng dân tộc và miền núi còn nhiều hạn

nhiệm: "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối với các dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội miền núi". Trong đó, có dành một chương
nghiên cứu về vấn đề phát triển ĐNCB, trí thức các DTTS gắn với quá trình phát triển
của cách mạng Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: KX-05: "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay", (sách tham khảo) do GS.TS Phan
Hữu Dật chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Có đề cập đến vấn đề cán bộ
người DTTS trong nội dung chương 3 và chương 4.
Chương 3: Đề cập đến cán bộ dân tộc khi nghiên cứu chính sách dân tộc dưới bài học
kinh nghiệm sử dụng con người trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Chương 4: Bàn đến vấn đề cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay gắn với vai
trò của họ ở một số vùng cụ thể.
- PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm và GS.TS Trịnh Quốc Tuấn: "Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999. Đây là một cuốn sách tham khảo, có nghiên cứu một cách sâu sắc vai trò của
ĐNCB người DTTS đối với việc xây dựng và phát huy vai trò hệ thống chính trị các
vùng DTTS ở nước ta hiện nay.

- Cùng góc độ nghiên cứu trên, còn có cuốn sách "Hệ thống chính trị cơ sở và
dân chủ hóa đời sống xã hội ở nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta" do PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999.
Những luận văn và luận án đáng quan tâm như: Luận văn thạc sĩ: "Đổi mới
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay" của tác giả Lô Quốc Toản (1993); Luận
án tiến sĩ: "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của tác
giả Trịnh Quang Cảnh (2002). Nhìn chung, các tác giả đã đề cập đến vấn đề tạo nguồn
cán bộ người DTTS, đi sâu phân tích thực trạng trí thức người DTTS, đề xuất những
giải pháp để phát triển nguồn cán bộ DTTS và phát huy vai trò trí thức người DTTS.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu và các bài báo khác viết về

quan điểm về xây dựng ĐNCB nói chung, phát triển ĐNCB người DTTS nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn trân trọng kế thừa những thành quả nghiên cứu của một
số công trình có liên quan tới đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được triển khai trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lênin, có chú ý
đến tính đặc thù về mặt phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học để luận giải những
vấn đề đặt ra trong nội dung đề tài, gắn lý luận với thực tiễn chính trị - xã hội.
- Kết hợp đồng bộ các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành:
lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - hệ thống hóa,
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Nghiên cứu dưới góc độ lý luận - chính trị về thực trạng ĐNCB người DTTS ở
tỉnh Hòa Bình, đề xuất những phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm
góp phần phát triển ĐNCB người DTTS để đáp ứng những yêu cầu mới hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. ý nghĩa lý luận
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy
trong Trường chính trị về những nội dung liên quan tới xây dựng đội ngũ cán bộ nói
chung và phát triển ĐNCB người DTTS nói riêng.

6.2. ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho cấp ủy Đảng, chính
quyền tỉnh Hòa Bình tham khảo để xây dựng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và
sử dụng luân chuyển ĐNCB người DTTS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.

Chương 1
Đặc điểm và vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình
hiện nay

Đồng bào các DTTS ở nước ta sống phân tán và xen kẽ ở nhiều cấp độ khác
nhau, không hình thành vùng lãnh thổ riêng cho từng dân tộc. Chẳng hạn,
Dân tộc Dao phân bổ ở các tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái,
Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn Có những tỉnh
miền núi người dân tộc thiểu số chiếm số đông như Hà Giang, Cao Bằng trên
90%; Tuyên Quang, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu trên 70%; Kon
Tum 53,6% [12, tr.158].
Nhưng cũng có tỉnh, tỷ lệ đồng bào DTTS so với cư dân trong tỉnh không cao,
như "ở Đắk Lắk có tới 44 dân tộc cùng chung sống, các DTTS chỉ chiếm 28,4% cư dân
trong tỉnh" [28, tr.412].
Số dân của các dân tộc nhiều ít khác nhau, nhưng mỗi dân tộc có bản sắc văn
hóa riêng, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam (biểu hiện
qua ngôn ngữ, phong tục, luật tục, kiến trúc nhà cửa, giao tiếp, ứng xử ).
Do hậu quả lâu dài bởi các chính sách áp bức, bóc lột của chế độ thực dân
phong kiến cùng với điều kiện tự nhiên và môi trường khắc nghiệt, nên trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của các dân tộc không đều nhau, thậm chí còn có sự chênh lệch
khá lớn giữa các vùng miền và giữa các dân tộc; đặc điểm tâm lý, văn hóa tộc người
mang nhiều sắc thái đa dạng, phức tạp. Các thế lực thù địch đang hướng các trọng điểm
tấn công vào đồng bào DTTS nhằm phá hoại khối đại đoàn kết, gây mất ổn định chính
trị và phá hoại cách mạng Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của khái niệm dân tộc đã nêu và phân tích trên là cơ sở
quan trọng để nghiên cứu một đối tượng đặc thù: cán bộ người DTTS.
1.1.2. Cán bộ người dân tộc thiểu số
Do đặc điểm truyền thống dân tộc và chính sách Nhà nước của mỗi quốc gia,
nên việc xác định cán bộ ở các nước có sự khác nhau. Các nước phương Tây như: Mỹ,

Anh, Pháp, Đức dùng khái niệm công chức; các nước châu á như: Singapo khái niệm
công chức, Nhật khái niệm quan chức, những người làm chính trị là chính khách. Khái
niệm cán bộ thường được dùng từ trước đến nay ở các nước xã hội chủ nghĩa, ở các tổ
chức thuộc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

nhà chuyên môn, nhà khoa học; có thể là công chức, viên chức làm việc hưởng lương,
phụ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Cán bộ được hình thành từ dân
cử, bầu cử, tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm. Trong phạm vi đề tài này, chỉ tập trung nghiên
cứu cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn tại các cơ quan Đảng, chính quyền,
đoàn thể trên cơ sở phân tích số liệu cán bộ của các dân tộc trong toàn tỉnh Hòa Bình.
Theo tiến sĩ Lê Phương Thảo, khái niệm cán bộ DTTS dùng để chỉ một đối
tượng cán bộ đặc thù, tiêu chí cơ bản là xuất thân từ các DTTS. Khái niệm cán bộ
DTTS được dùng khi so sánh với khái niệm cán bộ dân tộc đa số và được xem xét trên
phạm vi toàn quốc, mặc dù trong không gian hẹp (tỉnh, huyện, xã), có khi một DTTS
nào đó lại chiếm số đông [38, tr.38].
Tính đặc thù của cán bộ người DTTS ở nước ta có mặt do lịch sử để lại, có mặt
nảy sinh trong quá trình vận động và phát triển.
1.2. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số số ở tỉnh Hòa Bình
hiện nay
Để làm rõ đặc điểm của ĐNCB người DTTS tỉnh Hòa Bình, trước tiên cần phải
tìm hiểu đặc điểm của các DTTS sống trên địa bàn tỉnh.
- Dân tộc Mường:
Dân tộc Mường là DTTS chiếm số đông nhất trong toàn tỉnh (62,8%). Sống
định cư ở các triền núi thấp. Làng là đơn vị cơ sở của xã hội Mường gồm nhiều tiểu gia
đình phụ quyền mà tế bào gia đình là cha mẹ và con cái, trong đó, quyền thế tập thuộc
về con trai trưởng. Mỗi làng của người Mường thường quần tụ nhiều dòng họ. Đặc điểm
nổi bật của người Mường là tính cộng đồng, được thể hiện trên nhiều mặt trong đời
sống của làng. Các hình thức sản xuất tập thể được hình thành phổ biến và có ý nghĩa
không nhỏ đối với từng đơn vị kinh tế gia đình. Chẳng hạn như: tổ chức nhóm lao động
mà không định thành phần tham gia, được tập hợp nhất thời theo mùa vụ, bằng sự tự

nguyện của các thành viên đáp ứng yêu cầu cấp bách về nhân lực dưới hình thức đổi
công. Những gia đình neo đơn, gặp hoạn nạn, hoặc mất mùa, đói kém người trong làng
thường giúp đỡ, cưu mang và không tính toán thiệt hơn
Trước đây sản xuất chủ yếu độc canh cây lúa, khai thác rừng, họ thường trồng

cộng đồng được đề cao trong quan hệ xã hội. Người Thái Mai Châu có lối sống đạt đến
trình độ cao về phép tắc ứng xử trong quan hệ gia đình, quan hệ bên nội, ngoại và quan
hệ với khách. "Trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm, uống rượu, đêm nằm đắp
chăn ngủ đệm", đó là phép tắc ứng xử tận tình, hiếu khách, trân trọng dành cho khách
tình cảm tốt đẹp nhất - đặc trưng của người Thái Mai Châu.
Người Thái có những món ăn độc đáo, trước hết là món xôi, trên mâm không
thể thiếu món ớt hòa muối tỏi, có rau thơm, hành, có thể thêm gan gà luộc, ruột cá, cá
nướng (gọi chung là chéo). Đồ ăn họ ưa chuộng là các món chế biến từ nướng, sấy sau
đó mới đến canh, xào, luộc; họ ưa các món ăn có vị cay, chua, đắng, bùi; ít dùng các
món ngọt, lợ, đậm
Nghề thủ công truyền thống của người Thái có từ lâu đời, thổ cẩm Thái đẹp và
nổi tiếng với hình trang trí như hoa, thú rất trang nhã và sinh động. Họ là những chủ
nhân của các bộ sử thi hàng ngàn trang như truyện thơ, cổ tích, ngụ ngôn. Nhạc cụ
truyền thống thường được sử dụng như: Trống đồng, khèn bì, pí các trò chơi dân gian:
ném còn, kéo co, bắn nỏ, chơi quay những phong tục tập quán của họ: cúng thần đất,
thần núi, lễ cưới, lễ tang, khánh thành nhà mới Múa (còn gọi là xoè) là sinh hoạt cộng
đồng đã ngấm vào máu thịt của mỗi người Thái, với đủ các loại: xoè vòng, xoè trống
chiêng, xoè kéng loóng
- Dân tộc Tày:
Người Tày ở Hòa Bình chiếm 2,7% dân số toàn tỉnh. Ngôn ngữ dân tộc Tày
thuộc nhóm dân tộc Cao Lan. Họ có nền sản xuất nông nghiệp và phát triển đa dạng,
làng xóm hình thành từ vài chục gia đình sống gắn bó với nhau; chủ yếu là do các dòng
họ, mỗi họ chia ra các chi. Từng họ có điểm riêng về tập tục, mỗi họ thờ hương hoa một
thần linh nhất định. Người Tày thờ tổ tiên là chính, do chịu ảnh hưởng của Nho giáo,
Phật giáo.

Trang phục của người Tày nhã nhặn, họ thường mặc váy hoặc quần áo cánh bên
trong, áo dài bên ngoài (áo dài 5 thân ôm sát eo dài chấm gót, khuy áo cài lệch sang phải),
thắt lưng đồng màu với áo dài được dệt từ sợi bông hay tơ tằm.
Do sinh sống xen kẽ với người Kinh, nên đời sống dân tộc Tày có nhiều nét hòa

Người H'mông sống bằng nghề nương rẫy, đã định cư nhưng còn du canh. Họ
trồng lúa, ngô và thức ăn đặc sản là món thắng cố; họ trồng cây, se sợi, dệt vải; chăn
nuôi trâu, bò, lợn, gà, chó, ngựa.
Trang phục chủ yếu bằng vải lanh tự dệt, y phục nữ truyền thống gồm váy xoè,
áo xẻ ngực, tạp rề trước và sau, xà cạp cuốn chân thêu hoa văn sặc sỡ; nam mặc quần
vải láy đen kiểu may chân què (không bổ đũng), áo chân đen bó sát người, tay áo chắp
vải mầu thành sọc ngang đặc trưng.
Các dòng họ sống quây quần thành từng cụm, trưởng họ lo đảm nhiệm việc
chung; người cùng dòng họ có thể đẻ và chết trong nhà nhau với quan niệm cùng một tổ
tiên phải giúp đỡ, cưu mang lẫn nhau.
Hôn nhân truyền thống của người H'mông là tự do kén chọn bạn đời. Họ có tục
"bắt vợ" khi trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ đồng ý nhưng kinh tế khó khăn không
làm đám cưới được, hẹn nhau ở một điểm và bạn trai dắt bạn gái về làm vợ.
Người H'mông tổ chức tết cổ truyền vào tháng 12 dương lịch, trong 3 ngày tết
họ không ăn rau xanh. Dụng cụ đặc sắc của người H'mông được sử dụng trong ngày tết,
vui xuân, hội hè, chợ phiên là khèn, đàn môi, lá.
Ngày nay, do điều kiện môi trường sống và các yếu tố lịch sử chi phối nên
người H'mông còn gặp rất nhiều khó khăn trong ổn định cuộc sống và trong phát triển
sản xuất của mình.
Như vậy, tất cả những đặc điểm của từng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã
để lại dấu ấn sâu sắc trong sinh hoạt, khắc ghi trong tiềm thức mỗi đồng bào dân tộc,
mỗi cán bộ người DTTS. Đội ngũ cán bộ người DTTS ở Hòa Bình cũng mang đậm dấu
ấn của người DTTS Hòa Bình, biểu hiện qua một số đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất: ĐNCB người DTTS chịu ảnh hưởng và tác động lớn của các thiết
chế xã hội truyền thống, của các DTTS sống trên địa bàn.

Cán bộ người DTTS ở Hòa Bình là những con người được sinh ra, lớn lên và
trưởng thành trên vùng đất đặc thù của đất nước. Họ không những mang trong mình
những nét chung của con người Việt Nam truyền thống và hiện đại, mà cuộc sống cộng
đồng dân tộc và cộng đồng dân cư tại nơi họ sinh sống đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự

được; trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta
vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư
tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng
thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn [20, tr.181].
Hai ông còn chỉ rõ, giai cấp vô sản và chính Đảng của mình, muốn giành được
quyền lãnh đạo, giữ được chính quyền phải xây dựng cho được ĐNCB thực sự trung
thành và tài năng.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ Đảng chưa nắm chính quyền, C.Mác
- Ph.Ăngghen chưa có thực tế để bàn nhiều về cán bộ, mặc dù hai ông rất quan tâm đến
việc xây dựng một đội ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư tưởng cộng
sản; lãnh đạo, tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.
Là học trò xuất sắc của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhận thức rõ vai trò to
lớn của ĐNCB, từ việc giác ngộ tư tưởng cho quần chúng, đến việc tổ chức họ lại tạo
thành một khối thống nhất giữa ý chí và hành động. Trong mỗi thời kỳ cách mạng,
người cán bộ có nhiệm vụ trọng đại khác nhau. Nếu trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền, các lãnh tụ của Đảng chủ yếu làm công tác tuyên truyền và tổ chức khởi nghĩa;
thì khi giành được chính quyền, nhiệm vụ giáo dục quần chúng vẫn phải tiếp tục, nhưng
nhiệm vụ trọng tâm nhất của người cán bộ là công tác tổ chức thực tiễn trong lĩnh vực
kinh tế.
Cán bộ luôn luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với toàn bộ tiến trình cách mạng vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng trước
hết thông qua đường lối chính trị, đồng thời phải thông qua con người và bộ máy tổ
chức. V.I.Lênin viết: "Sự lãnh đạo chính trị sẽ là gì chứ? Ai lãnh đạo nếu không phải là
những con người, lãnh đạo cách nào, nếu không phải là phân phối lực lượng?" [18,
tr.306]. Người đã gắn chặt ĐNCB, công tác cán bộ với vai trò lãnh đạo của Đảng và vai

trò cán bộ, công tác cán bộ chỉ được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có hiệu lực khi gắn với
đường lối nhiệm vụ chính trị của Đảng. Người đã đòi hỏi, giai cấp công nhân phải xây
dựng cho mình một đội ngũ những người "tâm huyết": "Nghiên cứu con người, tìm
những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh

người cán bộ cũng mất vai trò của mình. Vai trò của ĐNCB người DTTS cũng không nằm
ngoài mối quan hệ đó.
Đội ngũ cán bộ người DTTS - những người con ưu tú của đồng bào các dân tộc
được Đảng, Nhà nước và đoàn thể rèn luyện là một lực lượng cơ bản, trực tiếp tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức đồng bào các DTTS phát huy tinh thần yêu nước và sức
mạnh của mình để giải phóng chính mình trong sự nghiệp đoàn kết, giúp đỡ của các dân
tộc anh em, thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng.
Ngay từ thời kỳ đầu cách mạng đã xuất hiện nhiều đồng chí tiêu biểu như:
Hoàng Văn Thụ - ủy viên thường vụ Trung ương Đảng khóa I; Hoàng Đình Giong - ủy
viên Trung ương Đảng khóa I; các đồng chí: Chu Văn Tấn, Lê Quảng Ba, Đàm Quang
Trung đều là người DTTS. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - lực lượng vũ
trang cách mạng đầu tiên với 34 đồng chí, trong đó có 30 đồng chí là người DTTS (Tày,
Nùng, Dao). Nhiều đồng chí là chiến sĩ trong đội tuyên truyền giải phóng quân sau này
trở thành những tướng lĩnh tài ba thao lược: đồng chí Y Ngông Niếk Đăm, dân tộc Êđê
đã được giác ngộ trở thành cán bộ của Đảng và Nhà nước, đảm đương chức vụ ủy viên
ủy ban Thường vụ Quốc hội 9 khóa và ủy viên Trung ương Đảng 2 khóa; ở vùng người
Khơme có nhiều đồng chí tiêu biểu như đồng chí Sơn Thông, khu ủy viên khu Tây Nam
Bộ; đồng chí Huỳnh Cương, ủy viên cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, ủy viên Trung ương Đảng khóa VII, VIII [46, tr.73-74].
Ngày nay, ĐNCB người DTTS tiếp tục được xây dựng, phát triển và có vai trò to
lớn trong sự nghiệp đổi mới. Nhiều con em của đồng bào đang đảm nhiệm trọng trách trong
các cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Trong quy hoạch phân cấp giữa Trung ương và địa phương, cấp Trung ương có
chức năng lãnh đạo, quản lý vĩ mô những vấn đề quan trọng nhất có liên quan tới toàn
bộ đời sống xã hội, gồm: hoạch định đường lối chính sách, kế hoạch dài hạn, xây dựng

và ban hành luật pháp, pháp quy và cơ chế chung; giải quyết những vấn đề liên quan tới
công tác đối ngoại, an ninh - quốc phòng. Cấp địa phương có trách nhiệm tiếp thu, vận
dụng, cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Trung ương trong phạm vi địa bàn của mình; lãnh đạo, quản lý mọi lĩnh vực trên địa

vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội của địa phương, vào năng lực tổ chức triển khai và thực hiện của ĐNCB người
DTTS tỉnh Hòa Bình.
Kết luận chương 1
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta về cán bộ nói chung, cán bộ người DTTS nói riêng đã cung cấp cho
chúng ta cơ sở lý luận để làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm và vai trò của ĐNCB người
DTTS.
Nắm vững những đặc điểm của ĐNCB người DTTS là một trong những điều
kiện quan trọng nhất để đề xuất những giải pháp nhằm từng bước khắc phục những tồn
tại, hạn chế; phát huy những yếu tố tích cực và nâng cao vai trò của ĐNCB người DTTS
trong triển khai, thực hiện nhiệm vụ chính trị ở một tỉnh miền núi có đông đảo đồng bào
DTTS sinh sống.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc
phòng trên địa bàn phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, trình độ và năng lực của ĐNCB
người DTTS.
Trước nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới, cần phải đánh giá một cách khách
quan, toàn diện thực trạng ĐNCB người DTTS trên cơ sở bám sát yêu cầu chiến lược
cán bộ và những nhân tố tác động tới sự hình thành và quá trình phát triển của ĐNCB
người DTTS tỉnh Hòa Bình hiện nay.

Chương 2
Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình trong
thời gian qua

2.1. Những điều kiện khách quan tác động đến sự phát triển đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình
Trong điều kiện có tính đặc thù của tỉnh Hòa Bình, việc làm rõ những điều kiện
về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Đây là căn
cứ quan trọng để tỉnh xây dựng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói

- Khu vực núi huyện Kỳ Sơn: có ngọn núi Đồi Thơi, Cất Ca, Viên Nam cao trên
1000m. Núi ở khu vực này được kiến tạo bởi mác ma, mạng lưới thủy văn có nhiều thác
ghềnh cao từ 1-2m.
- Khu vực núi đá vôi phía Tây và Tây Nam: đây chính là một phần của cao
nguyên Mộc Châu kéo xuống huyện Mai Châu, Tân Lạc, Lạc Sơn, hình thành dãy núi
đã vôi khá cao chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, ở đây quá trình cacxtơ rất phát
triển, là khu vực cácxtơ điển hình của tỉnh Hòa Bình.
- Khu vực đồi và đồng bằng thung lũng:
Đồi ở Hòa Bình đa số có độ cao 200-300m, tập trung chủ yếu ở các huyện Tân
Lạc, Lạc Sơn, Yên Thủy, Lạc Thủy. Các đồi phần lớn được cấu tạo từ các loại nham
thạch cổ xưa nên thường có dạng đồi bát úp, ngăn cách bởi các thung lũng, có những
thung lũng trải rộng, kéo dài thành những cánh đồng tương đối bằng phẳng và các triền
bãi ven sông.
Do có vị trí địa lý như trên, Hòa Bình trở thành một địa bàn cơ động chiến lược
ở Bắc Bộ: là cửa ngõ của vùng Tây Bắc, là hậu cứ bảo vệ thành phố Hà Nội và đồng
bằng Bắc Bộ. Với địa hình hiểm trở, tạo nên lợi thế xây dựng căn cứ, một thế đất "tiến
có thể đánh, lui có thể giữ". Thực tiễn trong tiến trình lịch sử, núi rừng Hoà Bình từng
nhiều lần là căn cứ dấy binh, là địa bàn hoạt động chống xâm lăng, chống lại triều đình
phong kiến thối nát. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), từng là hậu
cứ của chiến trường liên khu Ba, là hành lang giao thông chiến lược giữa liên khu 3,
liên khu 4 với Việt Bắc và Tây Bắc.
Điều kiện địa lý tự nhiên không chỉ tạo ra vị trí chiến lược về an ninh - quốc
phòng, mà còn là một vùng đất rất giàu tiềm năng cho phát triển kinh tế của tỉnh.
2.1.2. Điều kiện kinh tế
Hệ thống sông, suối, hồ, đầm là nguồn lợi quan trọng cho phát triển kinh tế của
tỉnh, đặc biệt là nguồn năng lượng. Năm 1925, thực dân Pháp đã thăm dò, lập đề án xây

dựng thủy điện sông Đà tại thị xã Hòa Bình nhưng chúng không thực hiện được. Năm
1979, với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, công trình thủy điện Hòa Bình được khởi công
xây dựng. Đây là công trình thủy điện lớn nhất vùng Đông Nam á cuối thế kỷ XX, đầu

có loại đang ở tiềm năng: than, kẽm, thủy ngân, đồng, chì, sắt, vàng Đặc biệt, ở Kim
Bôi có than mỡ, tuy trữ lượng không lớn nhưng rất cần cho công nghiệp luyện kim;

vàng sa khoáng là một loại kim loại quý có rải rác tại nhiều địa bàn trong tỉnh; đất sét có
chất lượng tốt phục vụ cho sản xuất gốm sứ; đá ốp lát (đá granít), đá vôi, đá xanh rất
dồi dào, là nguồn nguyên liệu có giá trị trong công nghiệp xây dựng, làm cầu, làm
đường giao thông; nước khoáng có chất lượng tốt có thể sử dụng điều trị một số bệnh và
giải khát.
Về rừng, thực vật: Có nhiều loại gỗ có giá trị kinh tế, giá trị sử dụng cao như lát,
vàng tâm, nghiến, lim, sến, chò, de dùng trong nghề mộc dân dụng; có nhiều loại
bương, tre, luồng, nứa, mây ; có nhiều đặc sản rừng như nấm hương, mộc nhĩ, măng,
cánh kiến Ngoài ra, "rừng còn có nhiều cây thuốc quý, theo điều tra bước đầu, có trên
400 cây thuốc như quế, sa nhân, hà thủ ô, ngũ gia bì, hoài sơn, thổ phục linh" [39,
tr.9-10]. Trong rừng có nhiều loài thú: khỉ, trăn, rắn, hươu, nai
Về nông nghiệp: Thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất cho các hộ
đồng bào DTTS, cùng với thâm canh tăng vụ được đẩy mạnh, những tiến bộ khoa học -
công nghệ mới được ứng dụng trong sản xuất. Năm 2004, tỷ trọng giống lúa, ngô năng
suất cao chiếm trên 80% diện tích gieo trồng, đưa năng suất lúa trên chân ruộng hai vụ
bình quân đạt gần 10 tấn/ha/năm, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt trên 30 vạn
tấn (năm 1996: 173.266 tấn); đặc biệt đã xuất hiện một số mô hình đạt giá trị thu nhập
từ 50 triệu đồng/ha/năm trở lên.
Cơ cấu cây trồng từng bước được chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo ra
một số vùng chuyên canh như: mía nguyên liệu 3.000 ha, chè 2.800 ha (chè tuyết 600 ha),
cây ăn quả các loại gần 10.000 ha (dứa nguyên liệu 700 ha) tạo tiền đề đưa công nghiệp
chế biến vào nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển chăn nuôi trang trại (chủ yếu là bò, dê, gà) chăn nuôi công nghiệp
đem lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Nuôi trồng thủy sản trở thành một nghề có
thu nhập ổn định đối với nhiều hộ gia đình, nhất là nuôi cá lồng vùng hồ sông Đà.
Về công nghiệp: Trong đầu tư phát triển công nghiệp đã chú trọng phát huy thế
mạnh tiềm năng nguồn nguyên liệu của tỉnh như: công nghiệp sản xuất vật liệu xây

hộ được sử dụng điện. 213/214 xã, phường, thị trấn có điện thoại; bình quân 4,9 máy
điện thoại/ 100 người dân.

Trích đoạn Phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ Phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số phải đảm bảo giữa cơ cấu và tiêu chuẩn Nhóm giải pháp về tạo nguồn Nhóm giải pháp về chính sách, chế độ trong đào tạo, bồi dưỡng, bố
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status