BÀI GIẢNG HỌC PHẦN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN potx - Pdf 16

BÀI GIẢNG HỌC PHẦN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
ChươngI: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VẾ TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. Phân chia các nước theo trình độ phát triển
1. Sự hình thành thế giới thứ ba
Cho tới 1945, nhiều nước ở Tây Âu, nhất là Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ,…còn
kiểm soát những thuộc địa rộng lớn. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều
nước ở Châu Á châu Phi, Mỹ La tinh giành được độc lập dân tộc, có những
cố gắng trong phát triển kinh tế, với đường lối “độc lập tự chủ nhằm giảm bớt
sức ép từ các nước phát triển vốn đã từng là “chính quốc” của họ.Các nước
này được gọi là “thế giới thứ ba”. Cách gọi này nhằm phân biệt với “thế giới
thứ nhất” là các nước có nền kinh tế phát triển, phần lớn là các nước ở Tây
Âu, “thế giới thứ hai” là các nước có nền kinh tế tương đối phát triển, tập
trung ở Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Để tránh rơi vào vòng ảnh hưởng của khối này hay khối kia, nhiều nước
trong thế giới thứ ba đã liên kết lại với nhau dưới nhiều hình thức. Tháng 4-
1955, tại Indonexia đã diễn ra Hội nghị Bandung, thành lập Phong trào ”
Không liên kết”. Những người tham gia Hội nghị khẳng định quyết tâm xây
dựng quan hệ quốc tế mới, ưu tiên giúp đỡ cho các quốc gia nghèo, xây
dựng trật tự kinh tế bình đẳng.
Việt Nam là một trong số các nước sáng lập Phong trào Không liên kết. Đoàn đại biểu Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đã tham gia Hội nghị Bandung. Phong
trào này những nắm 1970 hoạt động rất sôi nổi, tạo những áp lực với các nước phát triển trong việc
xây dựng trật tự mới của kinh tế Thế giới,…
2. Phân chia các nước theo trình độ phát triển
Về mặt kinh tế, các nước thuộc thế giới thứ ba còn được gọi là các nước
“đang phát triển”. Khái niệm này xuất hiện vào những năm 1960, thời kỳ mà
hầu hết các nước này đang đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, bất bình đẳng về
kinh tế và xã hội, đang tìm cách bứt phá các ràng buộc để đi lên. Khái niệm
này còn dùng để phân biệt với các quốc gia giàu có ở phía Bắc. Tuy vậy, kể
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai nhiều nước đang phát triển đã tìm kiếm

thế.
- Kỹ thuật hiện đại.
- Cơ cấu ngành chuyển
dịch theo hướng dịch
vụ-công nghiệp-nông
nghiệp.
-Tỷ trọng xuất khẩu
chiếm ưu thế trong GDP
- Các truyền thống, tập
tục lạc hậu suy giảm
nhanh.
- Hệ thống quản lý hoàn
thiện theo sự tiến bộ của
môi trường kinh tế
- Đã thiết lập mạng các
quan hệ kinh tế-thể chế
với bên ngoài, hoạt
động có hiệu quả
- Đã công nghiệp hóa
trongthời kỳ đặc biệt
những nắm1960-1980,
đang ở giai đầu của
trưởng thành về kinh tế.
- Trên 6.000USD
- Định hình và chuyển
dịch nhanh theo các lợi
thế.
- Kỹ thuật hiện đại, có sự
kết hợp thích dụng các
loại hình kỹ thuật.

nghiệp- công nghiệp-
dịch vụ.
- Nhiều truyền thống tập
tục lạc hậu đang đè
nặng, thậm chí quyết
định sự phát triển.
- Đang tìm cách nối kết
các quan hệ kinh tế-thể
chế với các nước phát
triển và đang phát triển
-Đang trong quá trình
xây dựng, hoàn thiện hệ
thống các công cụ quản
lý.
* Các nước xuất khẩu dầu mỏ (hầu hết các nước này đều gia nhập Tổ
chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC) là những nước có trữ lượng dầu mỏ lớn, khai
thác và xuất khẩu dầu mỏ là ngành chính trong GDP. (Arập Xê út, Iran, Irắc,
Vêne duela,…). Mặc dù có thu nhập bình quân đầu người cao, nhưng lại
thiếu chuyên gia, công nhân lành nghề,… nên nhìn chung các nước này chưa
đi lên nhanh, cơ cấu kinh tế mất cân đối, phân phối thu nhập còn chứa đựng
nhiều bất bình đẳng. Gần đây, các nước này đang cố gắng điều chỉnh cơ cấu
với mức độ khác nhau và kết quả cũng rất khác nhau.
II. Đặc trưng của các nước đang phát triển
1- Những khác biệt giữa các nước đang phát triển
2
Cho dù các nước đang phát triển có những tương đồng về mặt bằng phát
triển, hoàn cảnh lịch sử-chính trị, nhưng giữa họ cũng có những khác biệt, tạo
nên bức tranh đa sắc trong thống nhất là chậm phát triển. Những khác
biệt này quyết định việc lựa chọn và sử dụng lợi thế của từng nước:
1-Quy mô đất nước (Dân số, diện tích ), 2-Điều kiện lịch sử- tự nhiên, 3-Vai

lạc hậu
Thu nhập thấp
Hình 1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Khái niệm tăng trưởng này bao hàm các vấn đề: tăng trưởng tạo ra cái gì?,
Tăng trưởng dựa trên điều kiện cơ bản nào? Tăng trưởng ở trong trạng thái
ra sao?
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng người ta sử dụng một hệ thống chỉ tiêu có tính
chất phối hợp và bổ sung cho nhau:
(1) Chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ tăng trưởng:
-Quy mô sản lượng quốc gia tăng thêm:∆G, G là sản lượng quốc gia,
người ta thường lấy GDP hoặc GNP đề tính toán.
- Tốc độ tăng của sản lượng
∆I
G
= :∆G/G
Trong đó: I là chỉ số phát triển (hay còn gọi là tốc độ phát triển) của sản
lượng, ∆I là chỉ số tăng ( hay là tốc độ tăng) của sản lượng
(2) Chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ các nhân tố sản xuất được sử dụng:
K, I
K
; L, I
L;
R, I
R
;…
Trong đó: K là vốn sản xuất; L là nhân lực được sử dung; R là tài
nguyên thiên nhiên
(3) Chỉ tiêu thu nhập bình quân /người-năm.
(4) Chỉ tiêu phản ánh tính ổn định kinh tế vĩ mô

hiện tình trạng lạm phát cao, thâm hụt ngân sách lớn nhập siêu quá
cao ,…
5 – Tăng trưởng nóng
6 - Tăng trưởng hiệu quả là sự tăng trưởng, theo thời gian, tốc độ thu
nhập tăng nhanh hơn tốc độ các chi phí về tài nguyên.
Khi nghiên cứu các trường hợp tăng trưởng đặc biệt trên, hãy xác
định nguyên nhân và hậu quả của nó về kinh tế, xã hội nếu duy trì
chúng trong dài hạn?
2. Phát triển kinh tế
2.1. Khái niệm: Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền
kinh tế, là quá trình biến đổi nhiều mặt về kinh tế, xã hội và cấu trúc theo
hướng tiến bộ. Như vậy, phát triển bao gồm các nội dung cơ bản:
- Phát triển là một quá trình, bao gồm sự thay đổi số lượng và chất
lượng kinh tế, xã hội và cấu trúc.
- Phát triển bao hàm quá trình tăng trưởng tương đối ổn định, dần đi
vào hiệu quả.
- Nội hàm của phát triển là chuyển dịch mặt bằng kinh tế, xã hội và giai
đoạn kinh tế.
2.2. Đo lường phát triển
Để đo lường phát triển người ta dùng hệ thống chỉ tiêu:
(1) Các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế
(2) Các chỉ tiêu về thay đổi cơ cấu kinh tế:
- Tỷ trọng các ngành, lĩnh vực và xu hướng vận động của chúng.
- Tổng chuyển dịch của các ngành và lĩnh vực.
- Chỉ tiêu phản ánh mức độ mở cửa của nền kinh tế
(3) Các chỉ tiêu phát triển xã hội và phản ánh cơ cấu xã hội
-Tuổi thọ bình quân; tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong dân
số
-Trình độ văn hóa và chuyên môn bình quân
-Tỷ lệ dân cư thành thị, nông thôn

nhà khoa học và quản lý lựa chọn và xếp hạng 10 sự kiện (hay thành quả) khoa học-công nghệ và
quản lý làm biến đổi căn bản nửa sau thế kỷ XX. Đến nay người ta chưa tổng kết chính thức?!. Tuy
vậy những sự kiện sau được đa số thừa nhận:1-Bom nguyên tử, 2- Công nghệ sinh học, 3-Con
người trong ống nghiệm, 4- Máy bay Boing và Concodre, 5- Máy tính và hệ thống mạng toàn cầu,
6-?, 7-?, 8-?, 9-?, 10-Các Chính phủ tìm cách can thiệp vào nền kinh tế để kích thích tăng trưởng
và điều chỉnh cấu trúc phát triển, chiến lược và quản lý chiến lược phát triển ra đời và được coi
trọng.Như vậy chiến lược và quản lý chiến lược cũng được nhiều người coi như là một
trong những sự kiện làm thay đổi căn bản nửa sau thế kỷ XX,…
4.1.Khái niệm chiến lược
Thuật ngữ chiến lược bắt nguồn từ lĩnh vực quân sự,sau này được vận
dụng vào lĩnh vực quản lý kinh tế với nội hàm thích hợp:
- Chiến lược là phương châm và kế hoạch có tính chất toàn cục, xác
định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng cả một thời kỳ của cuộc đấu
tranh chính trị xã hội (Từ điển tiếng việt)
Mục tiêu kinh tế
Tăng trưởng cao, ổn định
Phát triển bền vững
Mục tiêu xã hội
Mục tiêu
môi trường
Bảo vệ, cải thiện
TNTN,
MT
-Cải thiện các
điều kiện xã hội,…
- Phát triển nhân
lực
Cải thiện môi
trường, bảo vệ
TNTN

- Chiến lược đáp ứng nhu cầu cơ bản
- Chiến lược phát triển đa dạng
4.2.4. Xét theo mức độ tác động của chính phủ
- Chiến lược phát triển áp đặt hành vi
- Chiến lược phát triển hỗn hợp
V. So sánh chiến lược phát triển hướng nội và phát triển hướng ngoại
Đây là hai loại hình chiến lược được nhiều nước lựa chọn làm chiến
lược căn bản sau khi đã nỗ lực thiết lập sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Bảng 2: So sánh một số nội dung của hai chiến lược
Các nội dung so sánh
Chiến lược phát triển
hướng nội
Chiến lược phát triển
hướng ngoại
1-Xét về thị trường
2-Đặc trưng về cơ cấu và
phương thức vận động
- Lấy thị trường nội địa làm căn
bản để xác định cơ cấu sản
xuất và các ưu tiên trong chính
sách,…
- Sau khi tập trungphát triển
các ngành để đáp ứng nhu cầu
- Lấy thị trường bên ngoài làm
căn bản để xác định cơ cấu
sản xuất và các ưu tiên trong
chính sách,…
-Tập trung vào một số ngành
có sức cầu lớn ở bên ngoài về
7

- Phương thức vận động
không rõ nét nếu xét trong
trung hạn
- Phối hợp chính sách tạo lợi
thế tương đối cho các ngành
hướng ngoại và khuyến khích
xuất khẩu
- tăng cường phối hợp về chính
sách với các nước, các tổ hợp
tài chính-kinh tế quốc tế
-Tốc độ tăng trưởng và hiệu
quả cao, cho phép cân bằng có
hiệu quả sản xuất với tiêu dùng
cuối
- Cơ cấu mặt hàng-kỹ thuật linh
hoạt với từng khu vực thị
trường
- Du nhập nhanh và thích dụng
kỹ thuật công nghệ, kiến thức
kinh doanh và quản lý
- Có sự phân hóa nhanh thu
nhập giữa các ngành, vùng,
các tầng lớp dân cư
- Việc làm tăng chậm
- Chịu nhiều tác động của thị
trường thế giới
- Câu hỏi nghiên cứu sâu thêm:
1 -Trong điều kiện một nước gia nhập WTO,…nếu muốn duy trì một
ngành nào đó phát triển hướng nội là chính, những trở ngại nào sẽ gặp phải
và cần phải có những giải pháp nào để phát triển ngành đó mà không vi

hành động can thiệp của mình. Không phải như vậy đâu. Hãy để mặc tất cả,
hãy để mọi sự việc xẩy ra. Dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm cho các
bánh xe kinh tế hoạt động một cách gần như kỳ diệu. Không ai cần kế
hoạch, không cần quy tắc, thị trường sẽ giải quyết tất cả…”.
- Ông cũng đưa ra lý thuyết về phân phối thu nhập, theo nguyên tắc ”ai
có gì được nấy”. Tư bản có vốn thì có lợi nhuận, địa chủ có đất thì nhận địa
tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền lương.Theo tác giả đây là
nguyên tắc phân phối công bằng, hợp lý.
2.Các yếu tố tăng trưởng kinh tế và quan hệ giữa chúng
Nếu Adam Smith là người khai sinh, thì David Ricardo là đại diên xuất
sắc của trào lưu kinh tế học cổ điển. Ricardo cho rằng:
- Nông nghiệp là ngành quan trọng nhất, theo đó các yếu tố cơ bản của
tăng trưởng kinh tế là đất đai, sức lao động và vốn.
- Trong từng ngành, với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu
tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định.
-Trong ba yếu tố của tăng trưởng, đất đai là quan trọng nhất, do đó đất
đai là giới hạn của tăng trưởng. Để duy trì tăng trưởng, liên tục hóa sự vận
động của nền kinh tế, chỉ có thể xuất khẩu hàng công nghiệp để nhập khẩu
9
nông phẩm, đặc biệt là lương thực, hoặc phát triển công nghiệp để tác động
vào nông nghiệp.
3. Phân chia các nhóm người trong xã hội và thu nhập của họ
Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng, Ricardo chia xã hội thành các
nhóm người: địa chủ, nhà tư bản, công nhân. Phân phối thu nhập của ba
nhóm người này phụ thuộc quyền sở hữu của họ với các yếu tố sản xuất:
địa chủ có đất sẽ nhận được địa tô; công nhân có sức lao động thì nhận
được tiền công; tư bản có vốn sẽ nhận được lợi nhuận.
Do vậy, thu nhập của xã hội là tổng thu nhập của các tầng lớp
dân cư, nghĩa là bằng: tiền công + lợi nhuận + địa tô.
Trong các nhóm người của xã hội, các nhà tư bản giữ vai trò quan

Do những hoạt động không sinh lời này mà khả năng phát triển kinh tế bị
giảm bớt.
II. MÔ HÌNH CỦA K. MARX VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
K.Marx (1818-1883) là nhà kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử và triết học
xuất sắc. Tác phẩm nổi tiếng của ông là bộ “Tư bản”. Những quan điểm của
ông về phát triển kinh tế có thể tóm lược như sau:
1. Các yếu tố tăng trưởng kinh tế
Theo Marx, các yếu tố tác động đến quá trính tái sản xuất là đất đai,
sức lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật.
- Về yếu tố sức lao động: Tác giả cho rằng sức lao động là yếu tố duy
nhất tạo ra giá trị thặng dư. Thời gian lao động của công nhân chia ra hai
phần, thời gian lao động cho mình (v) và thời gian lao động cho nhà tư bản
(m). Tỷ lệ m/v phản ánh mức độ bóc lột công nhân của nhà tư bản.
- Về yếu tố kỹ thuật: Mục đích của nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư.
Muốn vậy họ phải tăng thời gian lao động, giảm tiền lương của công nhân,
tìm mọi cách nâng cao năng suất lao động. Hai hình thức đầu có giới hạn
trong khoảng nhất định. Cho nên, tăng năng suất lao động thông qua cải
tiến kỹ thật là con đường cơ bản để tăng khối lượng giá trị thặng dư (đồng
thời cũng làm tăng quy mô kinh tế).
Marx cho rằng, tiến bộ kỹ thuật làm tăng mức trang bị kỹ thật cho công
nhân, vì vậy cấu tạo hữu cơ (c/v) cũng ngày càng tăng lên.
Để trang bị kỹ thuật, nhà tư bản phải đầu tư bằng cách phân chia giá trị
thặng dư thành phần tiêu dùng cho mình và phần cho tích lũy. Đây là
nguyên lý của tích lũy tư bản chủ nghĩa.
2. Sự phân chia giai cấp trong xã hội
- Cũng như Ricardo, Marx cho rằng, khu vực sản xuất của cải vật chất
cho xã hội

gồm ba nhóm người: địa chủ, nhà tư bản và công nhân. Tương
ứng thu nhập của ba nhóm người này là địa tô, lợi nhuận, tiền công.

1. Nội dung cơ bản của mô hình
Cuối thế kỷ 19 cách mạng khoa học công nghệ có sự chuyển biến
mạnh, tác động nhiều mặt đến kinh tế, xã hội. Sự chuyển biến này đã làm
thay đổi cấu trúc kinh tế nói chung và cấu trúc chi phí sản xuất nói riêng.
Những thay đổi này đã thúc đẩy sự ra đời của trào lưu kinh tế “tân cổ điển”
đứng đầu là Marshall. Trường phái này có những điểm thống nhất với
trường phái cổ điển, đồng thời có những điểm mới.
-Trong mô hình tân cổ điển, các nhà kinh tế bác bỏ quan điểm của
trường phái cổ điển cho rằng trong một tình trạng nhất định, tỷ lệ kết hợp
của các yếu tố sản xuất là không thay đổi. Họ cho rằng vốn có thể thay thế
được nhân công và có nhiều cách kết hợp các yếu tố sản xuất.
-Từ đây, họ đưa ra quan điểm “phát triển kinh tế theo chiều sâu” trên cơ
sở trang bị kỹ thuật tăng nhanh hơn sức lao động và tiến bộ kỹ thuật là yếu
tố cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế.
-Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng: nền kinh tế có hai đường
tổng cung: AS-LR phản ánh sản lượng tiềm năng, còn đường AS-SR phản
ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy, họ cũng nhất trí với các nhà kinh tế cổ
điển là nền kinh tế luôn cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng. Bởi vì trong
điều kiện thị trường cạnh tranh, khi có biến động thì sự linh hoạt của giá cả
12
và tiền công là nhân tố cơ bản điều tiết, đưa nền kinh tế về lại sản lượng
tiềm năng thông qua sử dụng hết nguồn lao động.
- Chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng,
nó chỉ ảnh hưởng đến mức giá cả, do vậy vai trò Chính phủ là mờ nhạt
trong phát triển kinh tế.2. Mô hình Cobb –Douglas
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc và toàn
học hóa sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất.

0
AS-LR
AS-SR
GDP
g = αk+ βl + γr + t+t
AD
nhau. Trong đó khoa học công nghệ có vai trò quan trọng nhất với tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
IV. MÔ HÌNH KEYNES VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Nội dung mô hình
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp
trở thành căn bệnh thường xuyên của nền kinh tế các nước phát triển. Đại
khủng hoảng kinh tế 1929-1933 cho thấy học thuyết “tự do điều tiết “
của thị trường và ”bàn tay vô hình” của trường phái cổ điển và tân cổ
điển đã không còn sức thuyết phục. Các công cụ này không bảo đảm cho
nền kinh tế tự điều chỉnh để phát triển lành mạnh. Thực tiễn đòi hỏi phải có
học thuyết mới lý giải được sự vận động và đưa ra các giải pháp hiệu chỉnh
nền kinh tế.
Năm 1936, tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”
của J.Keynes đánh dấu sự ra đời một học thuyết mới.
1.1. Sự cân bằng của nền kinh tế
Khác với các tư tưởng cổ điển và tân cổ điển, J.Keynes cho rằng nền
kinh tế có xu hướng tự điều chỉnh đi đến cân bằng ở một mức sản lượng
nào đó dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho tất cả mọi người, tại nơi mà
những khoản chi tiêu mới cho đầu tư được hình thành từ tiết kiệm bắt đầu
được bơm vào hệ thống kinh tế.
Tác giả cho rằng, có hai đường tổng cung: AS-LR phản ánh mức sản

tư quyết định quy mô việc làm. Nhưng quy mô đầu tư lại phụ thuộc lãi suất
cho vay và hiệu suất cận biên của vốn. Ông viết:”Sự thúc đẩy tăng sản
lượng phụ thuộc vào sự tăng lên của hiệu suất cận biên của một khối
lượng vốn nhất định so với lãi suất”.
Tác giả sử dụng lý thuyết về việc làm và sản lượng do cầu quyết định
để giải thích tình trạng sản lượng tăng chậm trong khi thất nghiệp tăng nhanh
những năm 1930 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây. J. Keynes đề
xuất nhiều giải pháp để kích thích tăng tổng cầu và việc làm. Do đó lý thuyết
này còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.
1.3. Vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng
Từ phân tích tổng quan, Keynes đi đến kế luận: Muốn thoát khỏi khủng
hoảng, thất ngiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết nền kinh tế bằng các
chính sách, đặc biệt là những chính sách nhằm kích thích và tăng cầu tiêu
dùng.
Ông đề nghị:
- Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua các
đơn đặt hàng của Chính phủ, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp).
- Áp dụng nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận, giảm lãi suất.
- Tăng khối lượng tiền trong lưu thông, lạm phát có mức độ.
- Coi trọng hệ thống thuế, áp dụng thuế thu nhập lũy tiến để làm cho
phân phối công bằng hơn.
- Coi trọng đầu tư của Chính phủ vào khu vực công cộng, trợ cấp tất
nghiệp,…như là một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
V. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG HARROD - DOMAR
Dựa vào tư tưởng của J.Keynes, vào những năm 40 của thế kỷ XX,
Harrod và Domar độc lập nghiên cứu, cùng đưa ra mô hình giải thích mối
quan hệ giữa thất nghiệp và sản lượng ở các nước đang phát triển. Mô hình
này cũng được sử dụng để xem xét quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về
vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào đều phụ thuộc vào

s
g
=
Ở đây, k là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói
lên để tăng một đơn vị sản lượng cần có thêm bao nhiêu đơn vị tiết kiệm
( cùng có nghĩa là phải có bao nhiêu đơn vị đầu tư tăng thêm). Hệ số này
cũng cho biết trình độ kỹ thuật của sản xuất.
Đối với nhà kế hoạch, với phương trình này, có thể xác định các
phương án đầu tư ( trong trung hạn, dài hạn) là xuất phát từ nhu cầu tăng
trưởng hay là xuất phát từ khả năng tích lũy và các nguồn khác.
Tuy vậy, các nhà kinh tế trường phái tân cổ điển cũng phê phán mô
hình này ở các nội dung sau:
- Tăng trưởng trong thực tế không chỉ duy nhất là do đầu tư.
- Nếu đầu tư có tăng lên, nhưng đầu tư sai về mục tiêu và địa điểm,…thì
chưa chắc có tăng trưởng.
VI. LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Dựa vào lý thuyết của Keynes, Chính phủ nhiều nước đã linh hoạt
trong sử dụng các chính sách để hạn chế lạm phát, thất nghiệp, làm tăng sản
lượng thực tế. Sau một thời kỳ, do quá nhấn mạnh vai trò của chính sách, vai
trò tự điều tiết của thị trường bị xem nhẹ. Nhiều trở ngại mới cho tăng trưởng
đã xuất hiện.
Trong bối cảnh đó, một trường phái kinh tế mới đã ra đời mà người đại
diện là P.A.Samuelson với tác phẩm ”Kinh tế học”-1948. Ngày nay, hầu hết
các nền kinh tế đều vận động theo cơ chế hỗn hợp với nội hàm là nền kinh tế
vừa chịu tác động của chính sách và công cụ quản lý vừa chịu tác động của
các lực của thị trường. Liều lượng “pha trộn” hai lực này do hoàn cảnh kinh
tế, xã hội của từng nước, từng thời kỳ và nhận thức, vận dụng của Chính
phủ. Vì vậy học thuyết của Samuelson được coi là cơ sở của lý thuyết tăng
trưởng hiện đại.
Nội dung cơ bản của lý thuyết này là:

việc làm - tỷ lệ tất nghiệp, mức giá – tỷ lệ lạm phát, đây là những “cơ sở” để
giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế.
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hiện đại là Chính phủ
trở thành tác nhân có vị trí trung tâm để định hướng, phối hợp các hoạt động
của toàn xã hội; ổn định và cân bằng tổng chể; kích thích, tạo nhân tố mới
cho sự phát triển. Vai trò Chính phủ tăng lên không chỉ vì những thất bại của
thị trường mà còn do xã hội đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, đặc biệt là
góp phần định hướng và điều chỉnh cấu trúc kinh tế mà thị trường dù có hoạt
động tốt cũng không thể giải quyết có hiệu quả.
Theo Samuelson, trong nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp,
Chính phủ có bốn chức năng cơ bản:
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật;
- Xác lập chính sách ổn định kinh tế vĩ mô;
- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế;
- Thiết lập các chương trình tác động tới phân phối thu nhập.
Vì vậy Chính phủ cần:
- Tạo môi trường ổn định để các tác nhân kinh tế kinh doanh thuận lợi.
- Đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế với những
hướng ưu tiên cần thiết cho từng phân kỳ.
- Sử dụng các công cụ quản lý, các chương trình để hướng dẫn các
ngành, các doanh nghiệp hoạt động.
- Tìm cách duy trì công việc làm ở mức cao thông qua chính sách thuế,
tiền tệ và chi tiêu hợp lý.
- Khuyến khích đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, chống ô
nhiễm và bảo vệ môi trường.
- Điều tiết, phân phối lại thu nhập.
- Thực hiện các chương trình phúc lợi công cộng và phúc lợi xã hội.
17
B. CÁC LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN
Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được coi là tiêu

- Thứ ba, là các xu hướng có tính quy luật hoặc xu hướng ưu tiên (về
phát triển các ngành, sử dụng các nguồn lực,… ) trong chuyển dịch cơ cấu
ngành.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành
Cơ cấu ngành kinh là phạm trù động, thay đổi theo từng thời kỳ phát
triển, do sự thay đổi của các nhân tố quy định nó. Ngày nay, khoảng thời gian
trung bình cần thiết để cơ cấu ngành kinh tế định hình, chuyển dịch, đạt mục
tiêu, bắt đầu chuyển dịch theo cơ cấu mới có xu hướng rút ngắn lại. ( xem
hình 4)
18
Hình 4: Sự định hình và chuyển dịch cơ cấu ngành
- Ngành 1 tăng trưởng nhanh, đạt cực đại về tốc độ, sau đó giảm nhanh
- Ngành 2 có tốc độ ổn định trước thời điểm T
1

- Ngành 3 có tốc độ cao sau thời điểm T
1
- Ngành 4 xuất hiện trước T
1
và đang tăng trưởng nhanh
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng
thái này sang trạng thái khác trong những điều kiện xác định. Sự chuyển dịch
này thường phải đạt tiến bộ hơn. Quá trình này bao gồm sự thay đổi số lượng
ngành, tỷ lệ mỗi ngành, vị trí, tính chất của từng ngành trong hệ thống.
Về mặt phương pháp luận, chúng ta phải thiết lập các tiêu chuẩn hay
vấn đề (bao gồm các chỉ tiêu thích ứng) và phương pháp đánh giá tính tiến
bộ của cơ cấu ngành:

Bảng 3: Đánh giá tính tiến bộ của cơ cấu nghành
Tiêu chuẩn (hay vấn

(Là những tiêu chuẩn hay
vấn đề có tính đặc thù của
một giai đoạn kinh tế, hoặc
của một phân hệ kinh tế
được thể bằng những chỉ
tiêu cụ thể )
- Tốc độ tăng sản lượng (của GDP,
GNP)
- Tỷ lệ và mức độ thay đổi tỷ lệ của
các ngành
- Tổng chuyển dịch của các ngành
- Chỉ số giá cả (hàng hóa, dịch vụ
theo danh mục quy ước)
- Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong sản
lượng
- Tỷ lệ thất nghiệp trong dân số hoạt
động
- Tỷ lệ tích lũy và tích lũy nội địa
- Thu nhập bình quân /người-năm
- Thu nhập của ngân sách
- Năng suất lao động
-
-
-
-
-
- So với kế hoạch, với kỳ
trước,với kinh nghiệm chung
quân/người-năm còn dưới 500USD và sản lượng lương thực /người- năm chưa đạt mức
350kg thì tỷ lệ nông nghiệp chưa thể giảm nhanh trong sản lượng quốc gia. Điều này giải
thích tại sao chủ trương đưa nhanh chăn nuôi và cây công nghiệp thành ngành sản xuất
chính ở Việt Nam không thành công trong thời kỳ 1980 trở về trước.
Quy luật Engel về tiêu dùng lương thực thực phẩm đã gợi ý hướng
nghiên cứu cho các hàng hóa khác. Các nhà kinh tế gọi hàng hóa nông sản
là hàng hóa thiết yếu, hàng hóa công nghiệp là hàng hóa lâu bền, cung cấp
dịch vụ là hàng hóa cao cấp. Qua nghiên cứu họ phát hiện tính quy luật sau:
Trong quá trình gia tăng thu nhập, tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa thiết
yếu có xu hướng giảm, tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa lâu bền có xu
hướng tăng lên, nhưng tăng nhỏ hơn tốc độ tăng thu nhập, còn tỷ lệ
chi tiêu cho hàng hóa chất lượng cao có xu hướng ngày càng tăng.
Đến một mức thu nhập nào đó, tốc độ tăng tiêu dùng lớn hơn tóc độ
tăng thu nhập.
1.2. Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fischer
Trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật” (1935), trên cơ
sở quan niệm nền kinh tế gồm 3 khu vực: Khu vực thứ nhất gồm nông, lâm,
ngư nghiệp và khai thác khoáng sản; khu vực thứ hai gồm các ngành công
nghiệp chế biến và xây dựng; khu vực thứ ba là các ngành dịch vụ, tác giả
cho rằng:
- Với sự phát triển khoa học công nghệ, nông nghiệp là ngành dễ thay
thế nhân lực bằng máy móc và các phương thức canh tác hiện đại.Do đó
năng suất lao động tăng lên, nhu cầu nông phẩm cho xã hội được bảo đảm,
cho phép giảm tương đối và tuyệt đối nhân lực nông nghiệp trong cơ cấu
nhân lực theo ngành.
-Trong khi đó, do đặc tính kinh tế-kỹ thuật, công nghiệp khó thay thế
nhân lực bằng máy móc hơn so với nông nghiệp và hệ số co dãn cầu tiêu
dùng sản phẩm của ngành này lại luôn luôn dương (> 0 ).Vì vậy, theo đà phát
triển, tỷ trọng nhân lực hoạt động trong công nghiệp có xu hướng tăng lên.
- Dịch vụ, cũng do đặc tính kinh tế-kỹ thuật, là ngành có rào cản lớn

Theo tác giả, các quốc gia trong quá trình phát triển có thể phải trải qua
5 giai đoạn và có thể có giai đoạn thứ 6. Mỗi giai đoạn có những đặc trưng về
cơ cấu kinh tế, thể chế phản ánh bản chất của giai đoạn kinh tế đó.
Việc nghiên cứu các giai đoạn kinh tế nhằm làm rõ các vấn đề: Dưới
những tác động nào, một nền kinh tế cổ truyền có thể đi vào quá trình hiện
đại hóa; những nhân tố đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng; những đặc trưng
cơ bản của từng giai đoạn phát triển; những lực lượng tác động đến mối quan
hệ giữa các khu vực trong quá trình tăng trưởng.
Giai đoạn1 - Xã hội truyền thống cũ
Giai đoạn này được định nghĩa là giai đoạn dựa trên khoa học, công
nghệ tiền Niw ton với những đặc trưng cơ bản là:
- Nông nghiệp là ngành kinh tế thống trị, mang nặng tính tự cung, tự
cấp; năng suất thấp.
- Kỹ thuật lạc hậu, thủ công là chính
- Tích lũy nhỏ và không ổn định (gần như là con số không);
- Hoạt động xã hội kém linh hoạt, nhiều lề thói, tập tục lạc hậu đang
đè nặng lên các hoạt động kinh tế xã hội.
22
Tuy vậy, kinh tế xã hội không hoàn toàn tĩnh tại, vẫn có đi lên, nhưng
chậm chạp. Cơ cấu ngành lấy nông nghiệp làm căn bản. Do vậy đi nhanh ra
khỏi giai đoạn này là khó khăn, lâu dài không chỉ do các vấn đề kinh tế mà
còn do các vấn đề thể chế, đặc biệt là các thể chế có tính chất tự nguyện của
các cộng đồng dân cư, cộng đồng sắc tộc,…
Giai đoạn 2 - Chuẩn bị cất cánh
Giai đoạn này được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống cũ và
cất cánh, với nội dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để đi
vào cất cánh. Những đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là:
- Những hiểu biết về khoa học–kỹ thuật đã bắt đầu được ứng dụng
vào trong các ngành
- Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với sự phát

vào trong tất cả các ngành, lĩnh vực, của đời sống kinh tế - xã hội;
- Nền kinh tế “hòa mạng” có hiệu quả với kinh tế thế giới.
23
Tác giả dự đoán giai đoạn này kéo dài khoảng 60 năm. Cơ cấu ngành
giai đoạn này là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn 4 -Tiêu dùng cao
Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản:
Thứ nhất, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, dân cư ngày
càng giầu có kéo theo cầu hàng hóa dịch vụ chất lượng cao tăng lên.
Thứ hai, nhân lực, đặc biệt là nhân lực có trình độ cao và dân cư tăng
nhanh ở khu vực thành thị. Các chính sách hướng vào tăng phúc lợi xã hội,
kích thích tiêu dùng hàng lâu bền, chất lượng cao và giảm bớt bất bình đẳng.
Theo tác giả, đây là giai đoạn lâu dài nhất, nước Mỹ có thể phải mất 100 năm
để hoàn thành cơ bản giai đoạn này. Cơ cấu ngành có thể là dịch vụ - công
nghiệp.
Ngoài 5 giai đoạn trên đây, tác giả còn dự báo nhưng chưa đưa vào
phân tích là có thể có giai đoạn 6 với tên gọi ”Theo đuổi chất lượng cuộc
sống”.
Lý thuyết này có những hạn chế như: chưa làm rõ cơ sở của sự phân
chia và sự thống nhất trong việc đưa ra các đặc trưng mỗi giai đoạn; coi sự
vận động là một quá trình tịnh tiến mà không có những “lổ hổng” hoặc thời
cơ. Dù vậy, W.W.Rostow đã đưa ra sự suy diễn lịch sử, cung cấp một tầm
nhìn và quỹ đạo vận động của nền kinh tế. Đặc biệt, trên phương diện quan
hệ giữa phát triển và chuyển dịch cơ cấu thì đây là một tầm nhìn hợp lý.
3. Mô hình hai khu vực cảa Athus Levis
3.1. Đặt vấn đề
Vào những năm 1950, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Jamaica A.Levis
trong cuốn “Lý thuyết về phát triển” đã đưa ra các giải thích về mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình tăng trưởng với tên gọi “Mô
hình hai khu vực cổ điển”. Mô hình này được Jon Fei và Gustar Ranis chính

của đất đai và sức sản xuất của cây trồng quy định.
b - Khu vực hiện đại (công nghiệp)
Để mở rộng hoạt động, ngoài các yếu tố vốn, kỷ thuật,…khu vực công
nghiệp phải thu hút thêm nhân lực từ nông nghiệp với mức tiền công cao hơn
mức tiền công tối thiểu trong nông nghiệp mà họ hiện đang được hưởng.
Theo tác giả, mức trả cao hơn khoảng 30% so với mức tiền công tối thiểu .
Sơ đồ hàm sản xuất công nghiệp cho thấy, trong điều kiện dư thừa
nhân lực trong nông nghiệp, khu vực công nghiệp có một khoảng thời gian và
số lượng nhân lực mà ở đó khi thu nhận thêm nhân lực không phải tăng thêm
mức tiền công.
Ứng với mỗi mức kết hợp vốn và nhân lực sẽ có một đường biểu diễn
sản lượng. Khu vực công nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất, cho đến khi nhân
lực trở nên khan hiếm thì khu vực này phải tăng tiền lương lên một tỷ lệ nhất
định.
Đến một lúc nào đó, tính khan hiếm nhân lực chính trong nông nghiệp
sẽ xuất hiện, giá cả nông phẩm tăng lên,quan hệ trao đổi có lợi cho nông
nghiệp.
Theo thời gian, quan hệ công nông nghiệp sẽ thích ứng, tính nhị
nguyên giảm dần, cả hai khu vực đều phải đầu tư chiều sâu để duy trí tăng
trưởng.
IV. Mô hình hai khu vực của Harry T. Ôshima
T.Ôshima là nhà kinh tế người Nhật, trong tác phẩm”Tăng trưởng kinh
tế ở các nước châu Á gió mùa” đã đưa ra những quan điểm mới về phát triển
và mối quan hệ công-nông nghiệp, dựa trên những khác biệt về tự nhiên, kinh
25
L
A 1
L
A 2
TP

TP
3
=f(k
3,
l
3
)
TP
A 3
L
A 3
L


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status