nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý tài nguyên rừng tại xã đông xuân, huyện quốc oai, thành phố hà nội - Pdf 22



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

BÙI THỊ THÙY
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI XÃ ĐÔNG
XUÂN, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI XÃ ĐÔNG
XUÂN, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành :
Mã số :
Kinh tế Tài nguyên thiên nhiên và Môi trường
60.31.16
LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Tùng Hoa


sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh tế và Quản lý
- Trường đại học Thuỷ lợi; các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Lâm nghiệp; các
cán bộ tại xã Đông Xuân, huyên Quốc Oai, Thành phố Hà Nội; sự khích lệ, động
viên của gia đình, bè bạn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS. TS.
Đặng Tùng Hoa,
người đã hướng dẫn và giúp đỡ Tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Đỗ Anh Tuân, Trường Đại học Lâm
nghiệp đã góp ý và giúp đỡ Tác giả trong quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn UBND xã Đông Xuân và các cán bộ tại xã đã tạo điều
kiện giúp đỡ Tác giả hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên
khích lệ và giúp
đỡ Tác giả hoàn thành khoá học.
Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu công phu, khoa học và nghiêm túc
của bản thân; song do khả năng và trình độ có hạn nên không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Tác giả mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến
của các thầy giáo, cô giáo và những độc giả quan tâm đến đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 08 năm 2013
Tác giả luận văn
Bùi Th
ị Thùy DANH MỤC CÁC HÌNH
TT Tên các hình Trang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ NN & PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
UBND Ủy ban nhân dân
TTCN Ngành tiểu thủ công nghiệp
CN Ngành công nghiệp
BQL Ban quản lý
LSNG Lâm sản ngoài gỗ
PCCCR Phòng cháy chữa cháy rừng

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC QUẢN LÝ . 1
TÀI NGUYÊN RỪNG 1

ực trạng năng lực quản lý tài nguyên rừng tại xã Đông Xuân, huyện
Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 34
2.4. Những thuận lợi, khó khăn và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực quản lý
tài nguyên rừng tại xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 41
2.4.1. Những thuận lợi trong công tác quản lý rừng tại xã Đông Xuân, huyện
Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 41
2.4.2. Những khó khăn trong công tác quả
n lý rừng tại xã Đông Xuân, huyện
Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 48
2.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực quản lý rừng tại xã Đông Xuân, huyện
Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 51
2.5. Đánh giá chung về năng lực quản lý tài nguyên rừng tại xã Đông Xuân,
huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 55 2.5.1. Những hạn chế trong năng lực quản lý rừng tại xã Đông Xuân, huyện Quốc
Oai, Thành phố Hà Nội 55
2.5.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế năng lực quản lý rừng tại xã Đông Xuân,
huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội 57
Kết luận chương 2 59
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG
LỰC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI XÃ Đ
ÔNG XUÂN, HUYỆN
QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 60
3.1. Định hướng quản lý tài nguyên rừng của xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai,
Thành phố Hà Nội trong những năm tới 60
3.1.1. Định hướng quy hoạch rừng và đất lâm nghiệp 60
3.1.2. Định hướng quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng 61
3.2. Cơ sở đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý tài nguyên rừng
tại xã Đ

ng nhanh, sự nghèo đói, phong tục tập quán cũng có
ảnh hưởng không nhỏ tới tài nguyên rừng.
Quốc Oai là một huyện nằm ở phía Tây Thành phố Hà Nội, cách trung tâm
Thành phố khoảng 20km. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 147,01km2, dân số
khoảng 156.800 người (năm 2009). Trước khi xã Đông Xuân là một đơn vị hành
chính của Quốc Oai thì huyện có diện tích rừng không lớn, chủ yếu là diện tích rừng
thuộc xã Phú Mãn. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội theo Nghị quyế
t của
kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa 12 ngày 29/5/2008 thì xã Đông Xuân (trước đây thuộc
huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình) thuộc sự quản lý của huyện Quốc Oai. Xã Đông
Xuân có diện tích tự nhiên là 1720,36 ha, trong đó diện tích đất có rừng là 813,18
ha (chiếm 47,3% diện tích toàn xã), đất trống cho lâm nghiệp là 35,5 ha. Tất cả tài
nguyên rừng của xã Đông Xuân đều là rừng có trữ lượng, tuy nhiên do chưa có quy
hoạch tổng thể về lâm nghiệp trên
địa bàn huyện Quốc Oai nói chung và xã Đông
Xuân nói riêng nên việc quản lý nguồn tài nguyên này còn chưa hiệu quả dẫn đến
diện tích rừng tự nhiên ngày càng bị thu hẹp, trữ lượng và sự đa dạng về thành phần
loài thực vật giảm đi đáng kể. Bên cạnh đó việc quy hoạch cho trồng mới rừng (chủ
yếu là rừng sản xuất) còn manh mún, chủ yếu là do chủ rừng và người dân tự phát, trồng rừng theo mục đích riêng dẫn đến việc quản lý cũng còn gặp rất nhiều khó
khăn. Thêm vào đó là một số bộ phận người dân còn thiếu hiểu biết về tuân thủ
pháp luật cũng như kiến thức về bảo vệ và khai thác tài nguyên rừng, một số cán bộ
địa phương còn chưa coi trọng công tác quản lý nguồn tài nguyên này.
Tác giả tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao năng lực quản lý tài nguyên rừng tại xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai,
Thành phố Hà Nội” với mục đích đánh giá được thực trạng tài nguyên rừng và thực
trạng quản lý nguồn tài nguyên này tại xã. Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn để

thác rừng…
- Phương pháp tổng hợp và x
ử lý số liệu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu năng lực quản lý tài nguyên rừng,
các nhân tố ảnh hưởng và chi phối, thực trạng, giải pháp nâng cao năng lực quản lý
tài nguyên rừng tại xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn ở những vấn đề nâng cao năng lực quản lý tài
nguyên rừng tại xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Luận văn khảo sát công tác quản lý tài nguyên rừng và đánh giá
năng lực quản lý tài nguyên rừng của xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai, Thành phố
Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý tài nguyên rừng của xã trong thời gian tới.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề
tài
Ý nghĩa khoa học của đề tài: Dựa trên hệ thống hoá lý luận về năng lực quản
lý tài nguyên rừng, thực trạng quản lý tài nguyên rừng tại xã Đông Xuân, huyện
Quốc Oai, Thành phố Hà Nội, luận văn đưa ra cơ sở khoa học và các giải pháp nâng
cao năng lực quản lý tài nguyên rừng.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Những nghiên cứu, phân tích và đề xuất giải pháp
của
đề tài là những gợi ý và tài liệu tham khảo thiết thực về nâng cao năng lực quản
lý tài nguyên rừng nói chung và với xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội nói riêng.
5. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan lý luận cơ bản về năng lực quản lý tài nguyên rừng

tự nhiên chiếm 94%, rừng trồng 6%) và khoảng 8,5 tỷ cây tre, nứa. Trữ lượng gỗ
bình quân của rừng tự nhiên là 76,5 m
3
/ha và rừng trồng là 40,6 m
3
/ha. Gỗ tập trung
chủ yếu ở ba vùng là Tây Nguyên chiếm 33,8%, Bắc Trung Bộ 23% và Nam Trung
Bộ 17,4% tổng trữ lượng. Tổng diện tích lâm sản ngoài gỗ được gây trồng là
379.000 ha, chủ yếu tập trung ở ba vùng Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Bắc.
1.1.2. Vai trò của rừng đối với môi trường
Giá trị đa dạng sinh học của rừng ở Việt Nam rất lớn, rừng đóng vai trò quan
trọng như là những tr
ụ cột của bảo tồn ở mức độ sinh cảnh và vùng sinh thái.
Về hệ thực vật: Việt Nam có khoảng 12.000 loài thực vật có mạch, trong đó đã
định được tên 7.000 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm, hơn 2.300
loài thực vật đã được sử dụng làm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, lấy gỗ, 2
lấy tinh dầu, vật liệu xây dựng… Một số loài hiếm có ở rừng đặc dụng như: Gỗ đỏ,
Gụ mật, Hoàng liên chân gà, Bakich, Hoàng đàn, Cẩm lai, Pơ mu, Thông nước…
Về hệ động vật đã thống kê được 275 loài thú, 826 loài chim, 180 loài bò sát,
80 loài ếch nhái, trên 2.400 loài cá, 12.000 loài côn trùng. Một số loài hiếm như:
voi, tê giác, bò rừng, bò tót, trâu rừng, vượn đen, voọc vá, voọc đầu trắng, sếu cổ
trụi, cò quằn cánh xanh, ngan cánh trắng, trĩ, các loài chim và các loài bò sát, rùa và
độ
ng vật lưỡng cư… Nhìn chung, tài nguyên rừng ở Việt Nam rất phong phú, đa
dạng, có giá trị cao về cung cấp sản phẩm đáp ứng nhu cầu cho xã hội, giá trị trong
công tác bảo tồn, nghiên cứu khoa học của quốc gia và quốc tế.
Khi nói đến tài nguyên rừng người ta thường nghĩ đến hệ động – thực vật sống

đất và đi vào tầng nước ngầm, do đó rừng hạn chế được lũ lụt, bảo vệ mặt đất khỏi
hiện tượng xói mòn, rửa trôi, đồng thời tích trữ lượng nước ngầm để điều tiết các
con sông, con suối vào mùa khô. Rừng khi hiểu theo ý nghĩa như trên thì chính là
nơi t
ạo ra nguồn nước, vì vậy bảo vệ rừng chính là bảo vệ nguồn nước và bảo vệ sự
sống của con người.
Đối với môi trường đất: Rừng và đất có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau,
rừng bảo vệ đất và đất nuôi dưỡng rừng. Rừng có vai trò chế ngự dòng chảy, ngăn
chặn xói mòn đất, bảo vệ độ phì nhiêu cho đất, đặ
c biệt là đối với các vùng đồi núi
dốc. Khi đó các đặc tính lý hóa và sinh học của đất không bị phá hủy, đồng thời độ
phì nhiêu được duy trì do rừng liên tục tạo chất hữu cơ cho đất.
1.1.3. Vai trò của tài nguyên rừng đối với kinh tế
Hệ sinh thái rừng cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. Có lẽ
các sản phẩm thường được biết đến nhất từ
rừng là gỗ, mà cũng có một sự đa dạng
rất lớn của các ứng dụng và các mục đích, chẳng hạn như đồ nội thất, mục đích xây
dựng và nhiên liệu. Nhưng bên cạnh đó có một số lượng lớn các sản phẩm lâm sản
ngoài gỗ như cây thuốc, mật ong, trái cây và thịt động vật rừng.
Theo các số liệu và cách tính hiện nay, GDP lâm nghiệp chỉ bao gồm giá tr

tạo ra từ gây trồng, khai thác và một vài dịch vụ chiếm 1% tổng GDP quốc gia. Tuy
nhiên ngành lâm nghiệp còn có những đóng góp lớn vào nền kinh tế quốc dân thông
qua công nghiệp chế biến lâm sản xuất khẩu và các giá trị môi trường của rừng.
Trong giai đoạn 1995-2006, kim ngạch xuất khẩu hàng gỗ đã tăng từ 61 triệu USD
năm 1996 lên 1.570 triệu USD năm 2005, 2.000 triệu USD năm 2006. Tổng kim 4
ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ đạt gần 200 triệu USD/năm, dự kiến sẽ tăng bình

Kinh doanh bất động sản 16.268,00 16.682,00 102,54
Quản lý Nhà nước 12.974,00 13.918,00 107,28
Giáo dục đào tạo 16.721,00 17.818,00 106,56
Y tế 7.117,00 7.596,00 106,73
Văn hoá, thể thao 2.682,00 2.875,00 107,20
Đảng, đoàn thể, hiệp hội 525,00 560,00 106,67
Phục vụ cá nhân, cộng đồng 9.419,00 9.974,00 105,89
Dịch vụ làm thuê 840,00 893,00 106,31
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2009. 5
Từ Bảng 1.1, sản phẩm ngành lâm nghiệp chiếm tỷ lệ 0,56% tổng sản phẩm
trong nước. Đó là một tỷ lệ rất nhỏ, trong khi giá trị của hai ngành còn lại thuộc lĩnh
vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản là nông nghiệp chiếm 14,40% và thủy sản chiếm
2,61%.
Các số liệu về tốc độ phát triển và tỷ trọng ngành lâm nghiệp của Tổng cục
thống kê cho thấy lợi nhuậ
n từ sản xuất kinh doanh lâm nghiệp còn thấp, sức cạnh
tranh yếu, tiềm năng tài nguyên rừng chưa được khai thác hợp lý, nhất là lâm sản
ngoài gỗ và các dịch vụ môi trường. Bên cạnh đó rừng trồng cũng như rừng tự
nhiên năng suất và chất lượng thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là nguyên liệu gỗ lớn cho công nghiệp chế bi
ến và xuất
khẩu. Ngành công nghiệp chế biến lâm sản phát triển nhanh nhưng chủ yếu là tự
phát, chưa vững chắc, thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến lược, tính cạnh tranh chưa
cao.
1.1.4. Vai trò của tài nguyên rừng đối với văn hóa – xã hội
Ngành lâm nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện các hoạt động quản lý và
sản xuất lâm nghiệp trên diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở

những hiểu biết này được hình thành và tích luỹ trong quá trình trải nghiệm, ứng xử
lâu dài với núi rừng và tồn tại nhiều hình thức khác nhau (tín ngưỡng, kinh nghiệm,
luật tục….) đồng thời được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ và thực
hành xã hội (Ngô Đức Thịnh, 2004) [15]. Cộng đồng các dân tộc số
ng gần rừng và
trong rừng có những luật tục và quy ước bảo vệ rừng riêng, dân tộc Thái, Mường,
H’Mông hay Ê đê… có cách ứng xử với rừng khác nhau nhưng tri thức bản địa nói
chung và các luật tục nói riêng đã hình thành một cơ chế quản lý rừng, bảo vệ rừng
tương đối hiệu quả. Bảo vệ rừng cũng là bảo vệ những nét văn hóa truyền thống vốn
có, bả
o vệ cuộc sống, giúp đồng bào vùng cao an cư lạc nghiệp, yên tâm sản xuất
trên những mảnh đất màu mỡ mà rừng mang lại. “Tri thức dân gian của người Thái
trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước” của tác giả Vi Văn An (2011) [1] đã
phân tích tương đối kỹ việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước của người
Thái. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước được thể hiện ở kinh nghiệm và
nh
ững quy định cụ thể trong cộng đồng, thể hiện trong phong tục, tập quán, luật tục
của người Thái. Ngày nay xã hội trải qua nhiều biến động nhưng những phong tục
cũng như các nét văn hóa ứng xử với tài nguyên thiên nhiên được người Thái ở
nhiều địa phương gìn giữ, truyền lại qua nhiều thế hệ và tiếp tục phát huy giá trị tích
cực trong việc bảo vệ bền vữ
ng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. 7
1.2. Những khái niệm cơ bản về tài nguyên rừng
1.2.1. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố vật chất của tự nhiên mà con người
cóthể sử dụng trực tiếp để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm thỏa mãn cho nhu
cầu xã hội. Tài nguyên thiên nhiên là bộ phận của môi trường tự nhiên được hình

dụng.” Tuy nhiên định nghĩa này khó sử dụng vì nó không đưa ra các tiêu chí rõ
ràng về rừng, chiều cao của cây rừng ở mức tối thiểu là 2 – 5m. Hơn nữa, với việc
xác định diện tích đất có độ che phủ rừng từ 10% trở lên được coi là rừng thì các
diện tích đất trống đồi núi trọc cây tr
ồng phân tán hoặc không có rừng có thể được
gọi là rừng. Với cách phân loại như vậy thì sẽ rất khó quản lý và bảo vệ rừng.
Tiêu chuẩn quốc tế không yêu cầu các quốc gia phải sử dụng các tiêu chí xác
định rừng ở mức thấp nhất về độ che phủ rừng 10% và chiều cao cây rừng từ 2m trở
lên mà mỗi nước có thể áp dụng các tiêu chí phù hợp nhất với quốc gia đó. Theo Bộ
Tài nguyên và Môi trường, khi tham gia các dự án về AR-CDM (Trồng rừng/Tái
trồng rừng theo Cơ chế phát triển sạch) thì rừng ở Việt Nam là: Rừng có diện tích
tối thiểu là 0,5 ha, cây rừng khi thành thục có H
min
≥ 3m và có độ che phủ rừng tối
thiểu là 30%.
Tài nguyên rừng:
Hiểu theo nghĩa rộng, tài nguyên rừng là bộ phận của tài nguyên thiên nhiên
hữu hạn có khả năng tự phục hồi, bao gồm có rừng và đất rừng.
Rừng là quần thể sinh vật (động vật, thực vật, vi sinh vật…) và các yếu tố
của môi trường sinh thái (đất, nước, thời tiết, khí hậu, thủy văn…) trong đó thực vật
rừng đóng vai trò chủ đạo và mang tính đặc trưng khác biệt với các loại thực vật
khác về chu kỳ sống, về khả năng cung cấp và bảo vệ môi trường sống.
Đất rừng trong tài nguyên rừng được chia làm hai loại: Đất chưa có rừng và
đất có cây rừng. Đất chưa có rừng cần phải được quy hoạch để gây trồng rừng. Đất
có rừng bao gồm đất rừng trồ
ng và đất có rừng tự nhiên.
Mặt khác, tài nguyên rừng là một loại tài sản đặc biệt của quốc gia nên để
hiểu tài nguyên rừng cần phải hiểu qua các góc độ khác nhau:
Dưới góc độ sinh vật học: Tài nguyên rừng là khái niệm để chỉ hệ sinh thái
thống nhất, hoàn chỉnh giữa sinh vật và ngoại cảnh. Theo A. Tenslay (1935) rừng là

vụ môi trường và chức năng sinh thái mà rừng tạo ra như duy trì chất lượng nước,
giữ dòng chảy, điều tiết lũ lụt, kiểm soát xói mòn, phòng hộ đầu nguồn, hấp thụ các
bon, … 10
- Giá trị lựa chọn (Option Value): Là những giá trị chưa được biết đến của các
nguồn gen, các loài động vật hoang dã trong rừng và các chức năng sinh thái rừng
khi chúng chưa được đưa vào ứng dụng trong lĩnh vực giải trí, dược phẩm, nông
nghiệp, trong tương lai.
- Các giá trị để lại (Bequest Value): Là những giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp
mà các thế hệ sau có cơ hội được sử dụng.
-
Các giá trị tồn tại (Existence Value): Là giá trị nội tại đi kèm với sự tồn tại
của các loài trong rừng và hệ sinh thái rừng mà không kể đến việc sử dụng trực tiếp
như ý nghĩa về văn hóa, thẩm mỹ, di sản, kế thừa …
Ngoài các giá trị sử dụng trực tiếp thì các giá trị khác của tài nguyên rừng đặc
biệt là các giá trị về dịch vụ môi trường không được đ
em bán ở thị trường hoặc
chưa được xác định giá. Hiện nay trên thế giới phần lớn các dịch vụ môi trường như
giữ dòng chảy, phòng hộ đầu nguồn, hấp thụ các bon, bảo tồn đa dạng sinh học,
không thể đem ra mua bán vì chúng được coi là hàng hóa công cộng. Tuy nhiên thị
trường về dịch vụ môi trường của rừng trên phạm vi toàn cầu đã được xem xét và
đánh giá. Theo đó rừng có tác dụng cung c
ấp các dịch vụ môi trường gồm: Bảo tồn
đa dạng sinh học, hấp thụ các bon, phòng hộ đầu nguồn,… Nghiên cứu của Natasha
Land-Mill & Ina T.Porras (2002) [37] đã xác định cơ cấu giá trị cho các loại dịch vụ
môi trường của rừng là: Hấp thụ các bon chiếm 27%, bảo tồn đa dạng sinh học
chiếm 25%, bảo vệ đầu nguồn chiếm 21%, vẻ đẹp cảnh quan chiếm 17% và giá trị
khác chiếm 10%.

xuất mở rộng tài nguyên rừng
- Bốn là, về phương diện quản lý, hiện nay ngành lâm nghiệp đang quản lý các
hoạt động không chỉ thuộc lĩnh vực lâm sinh mà còn cả lĩnh vực khai thác và chế
biến lâm sản.
Quan điểm thứ hai: cho rằng lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc
biệt không chỉ có chức năng xây dựng, quản lý, bảo vệ
rừng mà còn có chức năng
khai thác sử dụng rừng. Như vậy, với quan điểm này khái niệm về lâm nghiệp đã
được mở rộng. Sản phẩm cuối cùng của lâm nghiệp đã là sản phẩm hàng hóa được
mua bán, trao đổi trên thị trường. Quan điểm này đề cao vai trò của lâm nghiệp
trong nền kinh tế quốc dân và đã coi hoạt động xây dựng và sử dụng rừng là giai
đoạn của quá trình tái sả
n xuất tài nguyên rừng. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi để
lâm nghiệp phát triển toàn diện. 12
Quan điểm thứ ba: Xuất phát từ thực trạng quản lý ngành lâm nghiệp và đứng
trên giác độ khép kín của quá trình tái sản xuất thì lâm nghiệp là một ngành sản xuất
vật chất ngoài chức năng xây dựng rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác vận chuyển
còn bao gồm cả chế biến lâm sản. Như vậy, quan điểm thứ ba tương đối toàn diện
hơn hai quan điểm trên. Quan điểm này v
ừa đảm bảo tính thống nhất trong quá trình
tái sản xuất, vừa đảm bảo chu trình sản xuất khép kín. Từ những quan điểm trên
người ta đã thống nhất đưa ra khái niệm về lâm nghiệp như sau:
Lâm nghiệp là ngành sản xuất vật chất độc lập của nền kinh tế quốc dân có
chức năng xây dựng rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác lợi dụng rừng, chế biế
n
lâm sản và phát huy các chức năng phòng hộ, văn hóa xã hội … của rừng.
Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có vai trò quan trọng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status