Luận văn tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp việt nam - Pdf 23

LUẬN VĂN:
Tác động của thuế GTGT tới hoạt
động kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt nam

Lời nói đầu

Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam từ năm 1999 thay cho thuế doanh thu là một
loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp hành thu. Việc ban
hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của

Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của thuế GTGT đối với
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

CHƯƠNG i
THUế Và THUế GTGT Đối với hoạt động
của các doanh nghiệp

i. KHáI QUáT Về THUế.
1. Sự ra đời của và bản chất của thuế.
1.1 Nguồn gốc xuất hiện của thuế.
Nhà nước là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác.

từng thời kỳ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Cũng có
thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
2. Vai trò của thuế.
Trong nền kinh tế thị trường, thuế có các vai trò chủ yếu sau:
2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN.
ở nước ta trong thời kỳ bao cấp thuế thường mới chỉ đảm bảo được khoảng 50%-
60% tổng số thu của NSNN. Một phần thu quan trọng của NSNN lúc đó còn phải dựa
vào viện trợ, vay nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho
không đã giảm nhiều, quan hệ kinh tế đối ngoại đang chuyển sang cơ chế có vay, có
trả, có đi, có lại hai bên cùng có lợi. Hệ thống thuế phải bảo đảm đến 80%- 90% tổng
số thu của NSNN, có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ. 2.2 Thuế góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Chính sách thuế được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải
phóng mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các
ngành nghề, các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước.
Tuỳ tình hình cụ thể, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết nền
kinh tế, bao gồm cả sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, điều chỉnh các
thành phần kinh tế phát triển theo định hướng phát triển của Nhà nước, điều chỉnh các
quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ và tiêu dùng, tiền và hàng,
giữa cung và cầu, nhập và xuất). Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê,
kiểm soát, thúc đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất,
hạ giá thành tăng hiệu quả kinh tế.
2.3 Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập, bảo đảm công
bằng xã hội.
Vai trò điều hoà thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa việc động

các khâu trong quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá, do đó mọi hoạt động kinh
doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi hoạt
động của quá trình sản xuất kinh doanh nêu trên đều thuộc đối tượng nộp thuế.
Như vậy phạm vi áp dụng của thuế GTGT có thể bao gồm :
- Hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế TTĐB.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất
nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp.
1.1.2. Đối tượng nộp thuế .
Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng
hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm :
- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh
nghiệp, luật DNNN và luật hợp tác xã.
- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp
tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ
chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
- Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và
các đối tượng kinh doanh khác.
3.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế
3.2.1. Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.


- Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.
- Thuế suất 5%, 10%, 20% đối với hàng hoá, dịch vụ.
3.2.2. Phương pháp tính
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương
pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT.
Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch
toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT.
Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp sau :
Phương pháp khấu trừ thuế
 Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh
nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng
tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Xác định số thuế GTGT phải nộp
Số thuế GTGT
phải nộp
=
Thuế GTGT
đầu ra
-
Thuế GTGT
đầu vào
Trong đó:

Thuế GTGT
đầu ra
=


Thuế GTGT đầu
vào
=
Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn
GTGT mua hàng hoá, dịch vụ
Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được khấu trừ
thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp
thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào tháng trước
được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ
thuế GTGT đầu vào.
Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT
 Đối tượng áp dụng
- Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn
chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
- Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
Xác định thuế GTGT phải nộp:
Số thuế GTGT
phải nộp

=
GTGT của hàng
hóa, dịch vụ
chịu thuế

x
Thuế suất thuế GTGT
của hàng hoá, dịch vụ

Giá trị vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng,
trong đó :
Nguyên liệu chính (gỗ) 14 triệu
Vật liệu và dịch vụ mua ngoài khác 5 triệu
Thuế suất thuế GTGT là 10% , thuế GTGT cơ sở A phải nộp được tính như sau:
GTGT của sản phẩm bán ra
25 triệu đồng – 19 triệu đồng = 6 triệu đ
Thuế GTGT phải nộp
6 triệu đồng x 10% = 0,6 triệu đồng
- Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt
công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực,
vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt
công trình, hạng mục công trình.
- Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp
trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt
động vận tải.
- Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số chênh
lệch giữa doanh số bán ra, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá vốn của vàng, bạc, đá
quý, ngoại tệ bán ra.
3.3. Các quy định khác
Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Từ hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn phù hợp với từng phương pháp
tính thuế và phù hợp với trình độ quản lý, kế toán của đối tượng nộp thuế. Đối tượng
nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT được khấu trừ, đối tượng nộp thuế theo phương pháp tính thuế GTGT được sử dụng hoá đơn thông
thường.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
thuế sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh

hoạt động. Mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tượng
nộp thuế khác.
Các đối tượng nộp thuế phải ghi mã số của mình trên mọi giấy tờ giao dịch,
chứng từ hoá đơn mua, bán, trao đổi kinh doanh, trên các sổ sách kế toán, trên các giấy
tờ kê khai thuế, chứng từ nộp thuế và các biểu mẫu kê khai với các cơ quan quản lý
Nhà nước theo quy định của pháp luật. Các đơn vị được sử dụng hoá đơn tự in phải in
sẵn mã số thuế của mình ở góc trên bên phải của từng tờ hoá đơn.
Hoàn thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế
được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:
- Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở nên có luỹ kế số thuế đầu vào được
khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào
chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế đầu vào
chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở nên thì được xét hoàn thuế theo tháng, hoặc
chuyến hàng (nếu xác định được thuế GTGT đầu vào riêng của chuyến hàng).
Đối với hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công xuất khẩu qua một cơ sở khác ký
hợp đồng gia công xuất khẩu, đối tượng hoàn thuế là cơ sở có hàng hoá đi uỷ thác
xuất khẩu, cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu.
- Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký theo phương pháp
khấu trừ nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu
thời gian đầu tư từ một năm trở nên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số
thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở
nên thì được xét hoàn thuế từng quý. - Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể,
phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế
GTGT nộp thừa.
- Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền

đơn bán hàng.
3.4. Cơ chế vận hành
3.4.1 Để hiểu được cơ chế vận hành của thuế GTGT trước tiên cần phải nhận rõ được
bản chất của thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế đánh trên diện rộng, tính trên
giá và đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau. Thực vậy:
- Thuế GTGT là loại thuế đánh trên diện rộng, bởi lẽ qua loại thuế này về mặt lý
thuyết mọi hàng hoá và dịch vụ đều có thể đưa vào diện đánh thuế.
- Thuế GTGT là một loại thuế tính trên giá thể hiện ở chỗ tiền thuế phải được
tính trên một tỷ lệ % nhất định trên giá cả mà không phải là số tiền cố định trên hàng
hoá và dịch vụ.
- Thuế GTGT đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau từ sản xuất, phân phối đến
tiêu thụ các loại hàng hoá và dịch vụ.
3.4.2 Tác động của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và đối với người tiêu
dùng có sự khác nhau:
Đối với các doanh nghiệp: Thuế GTGT gắn liền với 2 yếu tố riêng biệt độc lập
với nhau.
- Yếu tố có liên quan đến chế độ khấu trừ thuế, tức là liên quan đến bộ phận thuế
GTGT đánh trên các nghiệp vụ mua hàng hoá và dịch vụ đầu vào, kể cả nghiệp vụ mua tài
sản cố định .ở đâydoanh nghiệp cần thiết phải chia ra làm 2 khoản:
Thuế GTGT có thể khấu trừ .
Thuế GTGT không thể khấu trừ.
- Yếu tố liên quan đến chế độ tính thuế, tức là gắn liền với bộ phận thuế GTGT
thu được (thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ bán hàng hoá và dịch vụ đầu ra kể cả
nghiệp vụ bán tài sản cố định). Chênh lệch giữa thuế GTGT thu được và thuế GTGT có thể khấu trừ rơi vào một
trong hai trường hợp:
Nếu là số dương (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp phải nộp.
Nếu là số âm (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp được

tiêu dùng cuối cùng (toàn bộ gánh nặng về thuế GTGT, nói cách khác, do người tiêu
dùng cuối cùng chịu) bởi lẽ đối với họ chỉ phát sinh hành vi mua sau đó không phát
sinh hành vi bán.
Thuế GTGT phải nộp
(nếu kết quả là số
dương
)

Thuế GTGT được
thoái trả
(nếu kết quả là số
âm
)
4. Điều kiện áp dụng

Công tác kế toán và hoá đơn chứng từ ở doanh nghiệp. Hoá đơn chứng từ là
căn cứ pháp lý để thực hiện việc tính thuế, kê khai thuế GTGT. Cơ sở tính thuế là giá
trị tăng thêm vì vậy muốn xác định được giá trị tăng thêm thì doanh nghiệp phải thực
hiện ghi chép đầy đủ để xác định được đầu vào, đầu ra. Mặt khác đối với doanh nghiệp
thực hiện theo phương pháp khấu trừ, không có hoá đơn thuế GTGT của bên bán thì sẽ
không được khấu trừ phần thuế GTGT đã nộp ở khâu trước.

Công tác quản lý của cơ quan thuế: Thực hiện luật thuế mới không những tác
động đến công tác quản lý của các doanh nghiệp mà cả cơ quan thuế cũng phải cải tiến
phương pháp quản lý như: Cấp mã số thuế, áp dụng tin học vào công tác thuế, phát
hành và quản lý hoá đơn chứng từ, phát huy tinh thần tự giác của doanh nghiệp trong
việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo vào kho bạc Nhà nước.

Hơn nữa do chế độ “chuyên quản “ được chuyển sang chế độ tự kê khai của
doanh nghiệp cho nên nếu như không có những biện pháp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ
hơn hiện nay thì tình trạng thất thu thuế khó có thể hạn chế được.
- Công tác quản lý hành chính thuế: Hiện nay còn thô sơ, thủ công là chính cho
nên việc xử lý dữ liệu còn chậm chạp, có nhiều khả năng xảy ra sai sót cả do nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của cán bộ thu thuế. Trong khi đó đối với
việc quản lý thuế GTGT, thông tin cần lưu trữ lớn, đòi hỏi phải xử lý nhanh, chính
xác. Hiện nay ngành thuế vẫn chưa có một chương trình hoàn chỉnh về xử lý thông tin
thống nhất và nối kết trong một hệ thống máy tính trên phạm vi toàn quốc để truy cập
đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc thu nộp thuế được thuận lợi.
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan: Hiện nay việc thu thuế doanh
thu và thuế xuất nhập khẩu được tách rời nhau: Thuế xuất nhập khẩu do cơ quan hải
quan thu, thuế doanh thu do cơ quan thuế trong nước thu mà không có sự phối hợp
thường xuyên trao đổi thông tin giữa các cơ quan này. Khi áp dụng thuế GTGT thì
hàng nhập khẩu khi nhập khẩu vào Việt nam ngoài thuế nhập khẩu phải nộp thuế
GTGT, hàng xuất khẩu thì được hoàn thuế GTGT. Do đó để xác định đúng số thuế
phải thu cần phải có sự liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa ngành thuế nội địa và cơ quan
hải quan trong việc quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế
GTGT. Tương tự như vậy, đối với hàng xuất khẩu được hoàn thuế GTGT đã nộp cũng
cần phải có sự phối hợp đồng bộ để việc hoàn thuế được thực hiện đúng, đủ và kịp
thời, tránh tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp. 
Tình hình sản xuất, kinh doanh: Luật thuế GTGT được thông qua giữa tháng
5/1997 trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta đang trên đà phát triển vững chắc
mạnh mẽ. Có quan điểm cho rằng mặc dù thuế GTGT sẽ phải nộp cao hơn thuế doanh
thu đối với một số ngành nghề nhưng trong hoàn cảnh kinh tế đang lên, quá trình hội
nhập được đẩy nhanh, doanh nghiệp có thể đạt được lợi nhuận cao để bù đắp được rủi
ro thiệt thòi trong việc phải nộp thuế mới. Tuy nhiên chỉ 2 tháng sau khi luật thuế

vụ khác thuộc lĩnh vực ngân hàng là tiền thu được hoặc tiền hoa hồng được hưởng đối
với dịch vụ đó.
Doanh thu đối với hoạt động bảo hiểm là tiền thu về phí bảo hiểm nhận của
khách hàng.
Cơ sở kinh doanh có doanh thu bằng ngoại tệ được nộp thuế bằng ngoại tệ hoặc
đồng Việt Nam, quy đổi theo tỷ giá mua vào và do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
công bố tại thời điểm nộp thuế.
Trong trường hợp trao đổi hàng hoá, dịch vụ hoặc tự cung ứng hàng hoá, tự cung
ứng dịch vụ thì hàng hoá dịch vụ trao đổi hoặc tự cung ứng phải được tính thành tiền
tại thời điểm phát sinh theo giá thị trường để làm căn cứ tính thuế.
Thuế suất doanh thu được quy dịnh cụ thể cho 6 ngành nghề sản xuất, xây dựng,
vận tải, thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ. Đối với các ngành nghề, danh mục sản
phẩm sản xuất kinh doanh đã được quy định chi tiết trong biểu thuế thì áp dụng đúng
theo thuế suất đã quy định. Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề thì phải hạch toán
riêng doanh thu của từng ngành nghề, sản phẩm. Nếu không hạch toán riêng được phải
áp dụng thuế suất cao nhất trong số những ngành nghề đó để tính thuế trên tổng doanh
thu của các ngành nghề sản phẩm đã tiêu thụ.
Hộ kinh doanh nhỏ được tính và nộp thuế theo chế độ khoán doanh thu từng thời
kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng. Mức doanh thu khoán được cơ quan thuế ấn định căn cứ theo
tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, tài liệu điều tra của cán bộ thuế được thảo luận
công khai trong các tổ kinh doanh và công bố trước khi áp dụng.
Hộ kinh doanh nhỏ là hộ có doanh thu tính thuế bình quân tháng đối với từng
ngành nghề: Ngành sản xuất, thương mại: Đến 6 triệu đồng.
Ngành ăn uống: Đến 3 triệu đồng.
Ngành sản xuất, gia công, xây dựng, vận tải, dịch vụ: Đến 2 triệu đồng.
Ngoài ra, chương IV luật thuế doanh thu còn quy định việc giảm thuế, miễn thuế
doanh thu trong các trường hợp:

- Thuế doanh thu không có sự thống nhất, ràng buộc lẫn nhau do thuế được thu
độc lập với nhau từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy không kiểm tra thuế
đã nộp ở các khâu trước.
- Không khuyến khích các cơ sở sử dụng tốt chế độ hoá đơn chứng từ và thực
hiện chế độ hạch toán kế toán do nộp thuế ở khâu sau không được khấu trừ thuế khâu
trước.
- Thuế doanh thu quy định nhiều trường hợp miễn giảm không đúng tính chất của
thuế gián thu. Loại thuế này do người tiêu dùng chịu nhưng người sản xuất hoặc người
bán hàng lại được hưởng chế độ miễn giảm. Đó là sự mất công bằng giữa đối tượng
nộp thuế và đối tượng chịu thuế.
2. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam vì những lý do cơ bản sau:
2.1. Thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm không còn phù hợp
Với những tồn tại của thuế doanh thu, việc áp dụng luật thuế doanh thu không
còn phù hợp. Mặt khác, thuế doanh thu không còn phù hợp với đường lối đổi mới nền
kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT
nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu.
Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT
theo định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá do cung-cầu quyết
định, nếu duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong
quản lý và tạo kẽ hở cho trốn lậu thuế. Thuế doanh thu nhiều mức thuế suất bảo hộ đến
từng ngành hàng, mặt khác chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, giá cả hàng hoá dịch
vụ đều do Nhà nước thống nhất quản lý. 2.2. Do yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực
Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập để có thể phát triển
nền kinh tế- xã hội mà cần có sự hợp tác song phương, đa phương. Đó là xu hướng
hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Tất yếu dẫn đến yêu cầu đối với mỗi
nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status